Bản án 468/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 468/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 434/2020/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 477/2020/QĐXXST-HS ngày 30/10/2020 đối với các bị cáo:

1.Hunh Hoàng A, sinh năm 1994 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Ấp B xã T, huyện L, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1960 và con bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1964; bị cáo có vợ tên Phạm Ngọc M, sinh năm 1992 (đã chết) và có 01 con sinh năm 2010; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 29/6/2020, có mặt.

2. Phan Thị Bé P, sinh năm 1990 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Ấp 4 thị trấn H, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông Phan Văn N và con bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1956; bị cáo có 01 con sinh năm 2018; tiền sự, tiền án: Không có.

Nhân thân: Ngày 15/11/2016 Công an huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu ra quyết định xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo quyết định số 09, ngày 02/12/2016 chấp hành xong việc nộp phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 29/6/2020, có mặt.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1998, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Huỳnh Hoàng A và Phan Thị Bé P sử dụng ma túy. Tối ngày 28/6/2020, P nhắn tin qua mạng Zalo cho A hỏi A “có ma túy chơi không” A trả lời “có”. P nói A “mang ma túy sang phòng trọ P sử dụng” A nói “ra nhà nghỉ sử dụng”. Sau đó A điều khiển xe mô tô biển số 59X2- 936.06 đến chở P đến nhà nghỉ (không rõ tên) sử dụng ma túy, sử dụng xong P hỏi A “còn ma túy không cho P một ít đem về sử dụng”. A chỉ 02 gói ma túy A để trên nệm cho P và nói “cất đi mà sử dụng”. P lấy 02 gói ma túy bỏ vào ba lô của P, P nhờ A lấy xe mô tô chở P về. Khi cả hai lưu thông đến khu vực trước công ty Kính Nổi địa chỉ khu phố Chiêu Liêu, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị Công an phường Tân Đông Hiệp kiểm tra hành chính, thu giữ trong ba lô của P có 02 gói tinh thể màu trắng, P và A khai nhận là ma túy đá nên bị lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59X2- 936.66; 02 gói tinh thể màu trắng; 01 nỏ thủy tinh. Điện thoại Samsung Glaxy core Prime (màn hình bị nứt, không có nắp đậy phía sau) và điện thoại Samung J2 Prime, sim số 0948.188120 và sim số 0848.990.595 của A và P.

Kết luận giám định số 406/MT-PC09 ngày 06/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 02 gói nylon hàn kín thu giữ của A và P gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,2467 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng đã xử lý: Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59X2- 936.66 là tài sản của anh Nguyễn Hồ P1. Anh P1 cho A mượn xe không biết A sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả anh P.

Cáo trạng số 469/CT – VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Huỳnh Hoàng An, Phan Thị Bé Phi về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ + Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Hoàng A từ 15 tháng đến 18 tháng tù + Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Thị Bé P từ 12 tháng đến 15 tháng tù Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy và sim điện thoại của A và P. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động của bị cáo P và A.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo A và P nói lời sau cùng: Các bị cáo xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo Huỳnh Hoàng A, Phan Thị Bé P: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang ngày 29/6/2020, lời khai người chứng kiến, biên bản hỏi cung các bị cáo A và P thể hiện ngày 29/6/2020 khi kiểm tra hành chính A và P thu giữ 0,2467 gam Methamphetamine, Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo A, P đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 469/CT-VKS ngày 14/10/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo A, P không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo A, P có nhân thân xấu thể hiện việc không có nghề nghiệp ổn định, các bị cáo sử dụng ma túy trong thời gian dài.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo A, P phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công cụ thể, ma túy thu giữ và sử dụng có nguồn gốc do A mua sử dụng sau đó cho P để sử dụng. Xét tính chất mức độ hành vi thì mức hình phạt bị cáo A cao hơn so với P [4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, bộ dụng cụ sử dụng ma túy, sim điện thoại cần tịch thu tiêu hủy. Riêng điện thoại di động của A và P cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo A, P phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Hoàng A, Phan Thị Bé P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Hoàng A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù 1.2 Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Thị Bé P 01 (một) năm 01 (một) tháng tù Thời hạn tù đối với bị cáo A, P tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam 29/6/2020.

2. Các biện pháp tư pháp:

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Core Prime (màn hình bị nứt, không có nắp đậy phía sau);

01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2 prime + Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã được niêm phong (ký hiệu 406/PC09) bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 nỏ thủy tinh; sim số 0948.188.120 và 0848.990.595 Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/10/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Huỳnh Hoàng A, Phan Thị Bé P mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 468/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:468/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về