Bản án 465/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 465/2020/HS-ST NGÀY 09/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 433/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 472/2020/QĐXXST-HS ngày 27/10/2020 đối với bị cáo:

Phm Ngọc T, sinh năm 1988 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 99C/12 khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Phạm Văn P (đã chết) và bà Trần Thị E, sinh năm 1958; có 02 anh chị ruột, lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh năm 1981; có vợ Nguyễn Thị Trang Đ, sinh năm 1992 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 47/QĐ-UBND ngày 27/3/2020 bị Ủy ban nhân dân phường B, thành phố D ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 27/3/2020; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2020, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Võ Minh C, sinh năm 1958; thường trú: 9/1 khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trần Minh Q, sinh năm 1983, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 24/6/2020, Phạm Ngọc T sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen sim số 0984352523 điện thoại cho một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua túy đá. Phạm Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Click biển số 61S3 - 1494 đi đến trước cổng bệnh viện H, phường L, quận T, Thành phố H gặp và mua của người đàn ông 01 gói nylon hàn kín ma túy đá với số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Phạm Ngọc T cất gói nylon ma túy đá vào trong túi quần bên trái rồi đi về đến trước nhà số 265/5, đường Ố, khu phố N, phường B, thành phố D thì Đội cảnh sát điều tra Kinh tế - Ma túy công an thành phố D, phối hợp với công an phường B tuần tra phát hiện bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen, sim số 0984352523; 01 xe mô tô nhãn hiệu Click biển số 61S3 - 1494.

Kết luận giám định số 389/MT-PC09 ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0587 gam loại Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 463/CT – VKS ngày 13 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Phạm Ngọc T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Đi với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đi với ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,9519 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định và sim số 0984352523 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Ngọc T không tranh luận đối đáp gì, xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 15 giờ ngày 24/6/2020, trước nhà số 265/5, đường Ố, khu phố N, phường B, thành phố D, tỉnh B, Phạm Ngọc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại methamphetamine khối lượng 1,0587gam để sử dụng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 463/CT – VKS ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nh trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người không nghề nghiệp ổn định, nghiện ma túy, có nhân thân xấu, đã bị Ủy ban nhân dân phường Bình An ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 03 tháng.

[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Phạm Ngọc T đã bị xét xử hình phạt tù có thời hạn. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xử phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng: Xét ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,9519 gam, mẫu vật hoàn lại sau giám định, là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; sim điệm thoại số 0984352523 không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Xét điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen bị cáo sử dụng mua ma túy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[11] Xét xe mô tô nhãn hiệu Click biển số 61S3 – 1494 là tài sản hợp pháp của ông Võ Minh C, ông C không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D đã trả lại xe cho ông C.

[12] Đối với người bán ma túy cho Phạm Ngọc T chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[13] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân, xử lý vật chứng là phù hợp; mức hình phạt đối với bị cáo là nghiêm khắc.

[14] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T 01 (môt) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,9519 gam, mẫu vật hoàn lại sau giám định và sim số 0984352523.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/10/2020).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Phạm Ngọc T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 465/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:465/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về