Bản án 46/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 05 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2019/HSST ngày 03 tháng 05 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/ QĐXXST-HS ngày 14 tháng 05 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Q, sinh ngày 23 tháng 09 năm 1981 tại xã A, huyện C, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 1, Thôn N, xã A, huyện C, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Lục và bà Phạm Thị Tuất; có vợ là Nguyễn Thị Mừng và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/03/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

2. Nguyễn Văn H, sinh ngày 13 tháng 08 năm 1984 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Tô và bà Vũ Thị Huệ; có vợ là Mai Thị Phương và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

3. Nguyễn Xuân T, sinh ngày 26 tháng 09 năm 1987 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Từ và bà Đỗ Thị Nhuần; có vợ là Bùi Thị Son và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/03/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

4. Phạm Xuân H, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1984 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Phạm Văn Thính và bà Nguyễn Thị Huệ; có vợ là Lê Thị Dịu và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

5. Mai Văn Ch, sinh ngày 16 tháng 09 năm 1967 tại xã A, huyện C, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 1, Thôn N, xã A, huyện C, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/10; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Mai Văn Thủy và bà Trần Thị Gi; có vợ là Trần Thị Hà và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

6. Phạm Văn H, sinh năm 1980 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Phạm Văn Yến và bà Trần Thị Khuyên; có vợ là Đỗ Thị Oanh và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

7. Nguyễn Văn V, sinh năm 1981 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Văn Kính và bà Nguyễn Thị Thành; có vợ là chị Nguyễn Thị Huế và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

8. Nguyễn Mạnh Ng, sinh ngày 10 tháng 7 năm 1976 tại xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội M, xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Hữu Ruyên và bà Đặng Thị Yên; có vợ là chị Nguyễn Thị Huê và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Là đảng viên, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

Người làm chứng: NLC1; “vắng mặt”. NLC2; “vắng mặt”.

NLC3; “vắng mặt”.

NLC4; “vắng mặt”.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 12/2/2019, sau khi viếng đám tang, Nguyễn Văn Q cùng Nguyễn Văn H sang nhà NLC1 (Đội M, xã B) uống nước thì gặp Nguyễn Xuân T và Phạm Xuân H đang ở đó nên cùng rủ nhau đánh bạc ăn tiền bằng hình thức đánh “Liêng”. Q đưa tiền nhờ một thanh niên (không biết tên tuổi địa chỉ) mua hộ 01 bộ bài tú lơ khơ mang về cho Q, sau đó Q lấy 01 chiếc chăn của nhà NLC1 mang lên tầng 2 trải lên 02 chiếc chiếu đã trải sẵn từ trước trên tầng 2 nhà NLC1 rồi cùng H, T và Phạm Văn H ngồi đánh liêng ăn tiền với mức độ góp gà 20.000 đồng, tố cao nhất 100.000 đồng một ván. Sau đó lần lượt Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V, Nguyễn Mạnh Ng, NLC2, NLC3, NLC4 cùng đến. Phạm Văn H, Ch, V và Nguyên vào tham gia đánh bạc cùng Q, H, T, Phạm Văn H còn NLC2, NLC3, NLC4 đứng xem. Các đối tượng tham gia đánh bạc đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì bị tổ tuần tra Công an huyện Giao Thủy phát hiện bắt quả tang thu giữ số tiền đánh bạc 8.920.000 đồng; 02 chiếc chiếu cói, 01 vỏ chăn, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, 5 điện thoại di động. Quá trình bắt giữ Phạm Xuân H và Nguyễn Xuân T bỏ chạy thoát, đến ngày 13/2/2019 Phạm Văn H và T đến Công an huyện đầu thú.

Về số tiền đánh bạc của từng bị cáo: Nguyễn Văn Q khai nhận khi đi mang theo 1.450.000 đồng dùng để đánh bạc; khi bị bắt vứt xuống chiếu bạc. Nguyễn Văn H khai mang theo 500.000 đồng để tham gia đánh bạc, khi bị bắt H đang thắng, thu trên người H 2.200.000 đồng. Nguyễn Xuân T khai mang theo 1.000.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, khi bị bắt vứt xuống chiếu bạc và bỏ chạy. Phạm Xuân H khai mang theo 700.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc, khi bị bắt vứt xuống chiếu bạc và bỏ chạy. Mai Văn Ch khai mang theo 650.000 đồng để tham gia đánh bạc, khi bị bắt Ch đang thua, thu trên người 80.000 đồng. Phạm Văn H khai mang theo 500.000 đồng để tham gia đánh bạc, khi bị bắt đã thua hết tiền. Nguyễn Văn V khai khi đi mang theo 240 đồng, khi bị bắt thua trên tay chỉ còn 60.000 đồng. Nguyễn Mạnh Ng khai mang theo 240.000 đồng để tham gia đánh bạc, khi bị bắt thu trên người 60.000 đồng.

Cáo trạng số 42/CT-VKS ngày 02/05/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với tât cả các bị cáo; Điều 65 của Bộ luật Hình sự riêng với các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng; xử phạt Nguyễn Văn Q từ 12 đến 15 tháng tù; xử phạt Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H mỗi bị cáo từ 9 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng; Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng mỗi bị cáo từ 6 đến 9 tháng tù, cho các bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với tất cả các bị cáo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 8.920.000 đồng; tịch thu tiêu hủy: 01 ca nhựa; 02 chiếc chiếu cói, 01 vỏ chăn, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân Các bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Lời khai nhận hành vi của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các liệu khác trong hồ sơ vụ án; từ đó, đã có đủ cơ sở xác định: Ngày 12/02/2019, tại nhà NLC1 (địa chỉ: Đội 5 Duyên Hồng xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định); các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng cùng nhau đánh bạc được thua bằng tiền, hình thức đánh “Liêng”, tổng số tiền đánh bạc là 8.920.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, xâm phạm nếp sống văn minh của xã hội. Tội phạm đánh bạc là một tệ nạn, là nguồn gốc làm phát sinh các loại tội phạm khác như các tội chiếm đoạt tài sản, ảnh hưởng xấu đến từng cá nhân, đến trật tự an toàn xã hội, hạnh phúc nhiều gia đình đã tan vỡ vì cờ bạc. Vì vậy, cần thiết phải đấu tranh mạnh mẽ để loại trừ bằng pháp luật hình sự.

[4] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ, số tiền đánh bạc không lớn. Bị cáo Nguyễn Văn Q chuẩn bị dụng cụ đánh bạc, tham gia từ đầu nên có vai trò cao hơn các bị cáo còn lại trong vụ án. Các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T và Phạm Xuân H cùng tham gia từ đầu với Nguyễn Văn Q, có vai trò lớn hơn các bị cáo tham gia sau là Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tất cả các bị cáo đều có nhân thân tốt, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn Q có mẹ là bà Phạm Thị Tuất được tặng thưởng Huy chương, bị cáo Phạm Văn H là ông Phạm Văn Thính là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, bị cáo Nguyễn Mạnh Ng có bố là ông Nguyễn Hữu Ruyên được tặng thưởng Huân chương nên các các bị cáo này được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về việc quyết định hình phạt:

[6.1] Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với tất cả các bị cáo. Tuy nhiên các bị cáo đều phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo này được cải tạo tại địa phương là phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.

[6.2] Các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.

[7] Về vật chứng, tài sản thu giữ:

[7.1] Số tiền 8.920.000 đồng là tiền đánh bạc nên tịch thu sung quỹ Nhà nước..

 [7.2] Đối với 02 chiếu cói, 01 vỏ chăn, 01 ca nhựa và 01 bộ bài tú lơ khơ các đối tượng sử dụng để đánh bạc không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

[7.3] 05 điện thoại di động đã thu giữ nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

[10] Đối với NLC1, để cho các đối tượng đánh bạc không thu lợi gì. Xét thấy hành vi của NLC1 chưa đến mức phải xử lý về hình sự nên Công an huyện Giao Thủy đã xử phạt hành chính là phù hợp.

[11] Về án phí: Các bị cáo bị kết tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng phạm tội “Đánh bạc”.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự riêng đối với Nguyễn Văn Q, Phạm Xuân H và Nguyễn Mạnh Ng;

Xử phạt Nguyễn Văn Q 15 (mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/03/2019) Xử phạt Nguyễn Văn H 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Nguyễn Văn H đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Xử phạt Nguyễn Xuân T 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Nguyễn Xuân T đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/03/2019).

Xử phạt Phạm Xuân H 9 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Phạm Xuân H đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Xử phạt Mai Văn Ch 9 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Mai Văn Ch đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Xử phạt Phạm Văn H 9 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Phạm Văn H đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Xử phạt Nguyễn Văn V 9 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Nguyễn Văn V đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Xử phạt Nguyễn Mạnh Ng 6 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019); (bị cáo Nguyễn Mạnh Ng đã bị tạm giữ từ ngày 13/02/2019 đến ngày 15/02/2019).

Giao: Các bị cáo Nguyễn Văn Q và Mai Văn Ch cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh Nam Định; các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 8.920.000đ(tám triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng) đã thu giữ theo Biên lai thu số 05586 ngày 03/05/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy.

Tịch thu, tiêu hủy: 02 chiếu cói, 01 vỏ chăn, 01 ca nhựa và 01 bộ bài tú lơ khơ (theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 cùng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Xuân T, Phạm Xuân H, Mai Văn Ch, Phạm Văn H, Nguyễn Văn V và Nguyễn Mạnh Ng mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về