Bản án 46/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Vàng Văn Ch, sinh năm 1988, tại huyện S, tỉnh Lai Châu.

Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản T 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 4/12.

Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Vàng Văn Ng, sinh năm 1966; Con bà: Lò Thị Ch, sinh năm 1967.

Bị cáo có vợ Điêu Thị V, sinh năm 1991 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 13/5/2019, tạm giam ngày 15/5/2019, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vàng Văn T, sinh năm 1990, địa chỉ bản T 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên, xin xét xử vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phùng Việt H, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 30 phút, ngày 13/5/2019, Vàng Văn Ch đi vay 500.000 đồng của bà Lò Thị H ở bản Chiềng Nưa 1, xã S, huyện N bị cáo nói là mua thóc giống. Vay được tiền, bị cáo mang về nhà đưa cho vợ bị cáo 200.000 đồng để mua thức ăn. Sau đó Vàng Văn Ch đến nhà Vàng Văn T ở cùng bản mượn xe mô tô 27V1-046.96 đi mua ma túy về sử dụng. Bị cáo đi đến bản M 1, huyện M, tỉnh Điện Biên thì gặp một người đàn ông tên là C và nhờ C mua được một gói Heroine với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine, bị cáo dùng tay tách ra làm 03 phần, một phần bị cáo cùng người đàn ông tên C sử dụng. Hai gói Heroine còn lại bị cáo cầm ở tay trái một gói, một gói bị cáo cho vào túi quần đang mặc và đi về, C đi đâu bị cáo không rõ. Trên đường về bị cáo vào nhà Lò Văn K ở bản N 1, xã S, huyện N xin hút thuốc lào. Khi vừa vào nhà K thì tổ công tác Công an huyện N và Công an xã S đến nhà K phát hiện bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Vàng Văn Ch thấy tổ công tác đã nuốt gói Heroine cầm trên tay vào bụng. Tổ công tác yêu cầu bị cáo giao nộp chất cấm trong người. Vàng Văn Ch đã lấy trong túi quần 01 gói ni lông màu xanh giao nộp, còn một gói Heroine bị cáo đã nuốt vào trong bụng được tổ công tác đưa đến Phòng khám đa khoa khu vực S gây nôn và thu giữ gói Heroine của bị cáo.

Cáo trạng số 49/CT-VKSNP ngày 28/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Vàng Văn Ch về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Vàng Văn Ch từ 18 đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và các tình tiết giảm nhẹ khác. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án 18 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện N và luận cứ bào chữa của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ phạm tội:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 20 giờ 40 phút ngày 13/5/2019 bút lục 01, 02 chứng minh bị cáo Vàng Văn Ch bị bắt khi đang tàng trữ ma túy. Tổ công tác Công an huyện N và Công an xã S tạm giữ của bị cáo một gói ni lông màu xanh và một xe mô tô biển kiểm soát 27V1-046.96. Biên bản làm việc hồi 23 giờ ngày 13/5/2019, tại bút lục số 03, sau khi gây nôn, Vàng Văn Ch nôn ra một gói ni lông màu xanh có chứa chất bột màu trắng đục nghi là Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 09 giờ 00 phút ngày 15/5/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N bút lục số 24, 25 khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Vàng Văn Ch là 0,35 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam.

Kết luận giám định số 516/GĐ-PC09 ngày 23/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 30 mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng Văn Ch gửi giám định là chất ma túy loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Vàng Văn Ch có tội. Bị cáo đã đi mua ma túy là Heroine với mục đích sử dụng. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vàng Văn Ch có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[2] Về tính chất mức độ phạm tội: Khối lượng ma túy bị thu giữ của Vàng Văn Ch là 0,35 gam Heroine. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra ở huyện S, tỉnh Lai Châu. Bị cáo được gia đình nuôi cho ăn học đến lớp 4 phổ thông thì bị cáo cùng gia đình chuyển về sinh sống ở bản T 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên. Bị cáo do không làm chủ được bản thân nên đã sớm nghiện ma túy. Đây là nguyên nhân chính để bị cáo phạm tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối chiếu các quy định tại khoản 1 của Điều 52 Bộ luật hình sự thì bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và các tình tiết giảm nhẹ khác. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án 18 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Hi đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Vàng Văn Ch.

[8] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,35 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng này tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vật chứng là một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27V1-046.96 do Vàng Văn Ch sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô trên là của anh Vàng Văn T, sinh năm 1990, địa chỉ ở bản T 1, xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp. Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do vậy Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vàng Văn T vắng mặt được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính.

[11] Các vấn đề khác:

Ngun gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một đàn ông lạ mặt tên là C ở khu vực xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N xác minh nhưng không có đủ cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vàng Văn T đã cho Vàng Văn Ch mượn xe mô tô thuộc quyền sở hữu của mình để Chuyện thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra Vàng Văn T không liên quan đến hành vi của bị cáo. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng Văn Ch phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng Văn Ch 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 13/5/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,35 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,08 gam không hoàn lại đối tượng giám định. Vật chứng còn lại 0,27 gam và toàn bộ phần giấy nilon, phong bì niêm phong cũ, bắt ngày 13/5/2019 được đựng trong phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng hồi 16 giờ 10 phút ngày 28/8/2019 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

- Chấp nhận biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu hồi 10 giờ 30 phút ngày 26 tháng 7 năm 2019 của Công an huyện N trả tài sản cho Vàng Văn T.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Vàng Văn Ch được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 18/9/2019. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về