Bản án 46/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2019/TLST-HS ngày 14/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày 27/3/2019 đối với bị cáo:

Trần Ngọc Q, giới tính: Nam, sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: không đăng ký; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Trần Thành H và bà Trần Thị Ngọc Tuyết H; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Mai Thị Bích T, có 01 người con sinh năm 2011; Nhân thân: Ngày 26/10/2006 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị bắt và tạm giam ngày 06/11/2018; (Có mặt).

Người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan:

1/ Ông Cao Xuân T, địa chỉ: xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt);

2/ Ông Trần Phú Q, địa chỉ: phường 9, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ 00 phút ngày 06/11/2018, Công an Phường 12, quận Gò Vấp kết hợp Công an quận Gò Vấp kiểm tra khách sạn Minh Vy, địa chỉ Phường 12, quận Gò Vấp, phát hiện tại phòng 202 do Trần Ngọc Q thuê, trên bệ cửa sổ có 01 hộp sắt (hộp kẹo Doublemint) bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, Q khai là ma túy đá nên lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.

Tại cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Trần Ngọc Quang khai:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 05/11/2018, Q điện thoại rủ Đoàn Đăng Q đến khách sạn Minh Vy nhậu thì Đăng Q đồng ý. Sau khi điện thoại xong, Q sử dụng xe gắn máy biển số 92G1-086.26 đi đến đường Cống Lở, Phường 15, quận Tân Bình gặp người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 600.000 đồng ma túy, T đưa cho Q 01 gói thuốc lá hiệu Jet bên trong có 03 gói nylon chứa ma túy, Q cất giấu vào trong người rồi đi về khách sạn Minh Vy, trên đường đi, Q mua bia và nước đá rồi lấy gói ma túy bỏ vào túi nylon đựng bia và nước đá. Khi đến khách sạn Minh Vy thì gặp Đăng Q, cả hai vào thuê phòng . Khi vào phòng Q thấy gói thuốc lá bị ướt nên lấy hộp Doublemint bằng sắt có sẵn trong phòng đi vào nhà vệ sinh lấy 03 gói ma túy từ trong gói thuốc lá cho vào hộp kẹo rồi bỏ vào túi quần đang mặc. Nhậu được 30 phút thì Q đi vào nhà vệ sinh lấy 01 gói ma túy cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy do Q tự làm rồi đem ra ngoài rủ Đăng Q cùng sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy cả hai đi ngủ đến khoảng 7 giờ sáng ngày 06/11/2018, Q thức dậy lấy hộp kẹo đựng 02 gói ma túy để trên thành cửa sổ đầu giường rồi dùng điện thoại của Đăng Q gọi cho Võ Hồng Đ nhờ mua bánh mì mang đến khách sạn Minh Vy thì Đ đồng ý, Đạt rủ Phan Thanh Quốc B đi cùng và mang bánh mì đến phòng khách sạn Minh Vy. Sau khi ăn bánh mì thì Q và Đăng Q đi công việc. Đ và Bảo ở lại trong phòng nhìn thấy bộ dụng cụ có sẵn ma túy nên cả hai sử dụng hết. Khoảng 30 phút sau Q và Đăng Q quay lại phòng thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang đang cất giữ ma túy.

Khi mới bị bắt Q khai tên là Nguyễn Minh T. Trong quá trình điều tra, xác minh Nguyễn Minh T có tên thật là Trần Ngọc Q.

Vật chứng thu giữ:

- 02 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu.

Tại bản kết luận giám định số 1802/KLGĐ-H ngày 14/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp, có khối lượng 0,4869 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamin.

- 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa và 01 hộp kim loại có in chữ DOUBLEMINT;

- 01 điện thoại Nokia màu đen.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo phiếu nhập kho số 294/PNK ngày 24/12/2018.

- 01 xe gắn máy biển số 92G1-086.26. Q khai mượn của anh ruột là Trần Phú Q để đi công việc. Xác minh, xe do anh Huỳnh Minh H đứng tên đăng ký xe, anh H bán xe cho anh Nguyễn Mạnh Đ, sau đó anh Đ bán lại cho anh Cao Xuân T bằng hình thức hợp đồng ủy quyền có công chứng, chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 08/10/2018, anh T bán xe cho anh Trần Phú Q với giá 7.000.000 đồng nhưng anh Q mới trả được 4.000.000 đồng còn nợ anh 3.000.000 đồng, việc mua bán chỉ làm giấy viết tay. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả xe cho anh Cao Xuân T.

Đi với Đoàn Đăng Q, Võ Hồng Đ, Phan Thanh Quốc B không biết việc Trần Ngọc Q giấu ma túy trong hộp sắt có chữ DOUBLEMINT để trên thành cửa sổ ở đầu giường, khi bị Công an kiểm tra thu giữ thì mới biết nên không đủ căn cứ xử lý. Cơ quan điều tra đã bàn giao Đoàn Đăng Q, Võ Hồng Đa, Phan Thanh Quốc B cho công an phường 12, quận Gò Vấp xử lý hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đi tượng bán ma túy cho Trần Ngọc Q chưa xác định được nhân thân lai lịch khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 51/Ctr-VKS-GV, ngày 12/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Trần Ngọc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Q từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu và tiêu hủy 02 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp; 01 bình nhựa trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa, 01 hợp kim loại có in chữ Doublemint;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Trần Ngọc Q đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Trần Ngọc Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo. Số ma túy bị cáo tàng trữ trái phép qua giám định có khối lượng 0,4869 gram, loại Methamphetamine nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. Bên cạnh đó bị cáo có nhân thân xấu, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho bị cáo phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[6] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 gói nylon đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp, bên trong chứa ma túy, loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết trả lại cho bị cáo;

- Đối với 01 bình nhựa trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa, 01 hợp kim loại có in chữ Doublemint bị cáo dùng để sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Q 01 (một) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 06/11/2018.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 02 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp; 01 bình nhựa trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa, 01 hợp kim loại có in chữ Doublemint;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen;

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 294/PNK ngày 24/12/2018 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nhĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

435
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về