TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 46/2017/HSST NGÀY 10/08/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 10 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2017/HSST ngày 21 tháng 7 năm 2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/HSST-QĐ ngày 27/7/2017 đối với:
* Các bị cáo:
1. Nguyễn Dương T, sinh ngày 26/3/1995 tại huyện V, tỉnh Yên Bái.
Nghề nghiệp: Lao động tư do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh. Con ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1964 và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1972. Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;
Về nhân thân: Nguyễn Dương T, sinh ngày 26/3/1995 tại xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái. Ngày 23/8/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 năm về tội “Trộm cắp tài sản" theo Bản án hình sự phúc thẩm số 16/2012/HSPT. Ngày 21/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản" theo Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2013/HSST. Ngày 07/11/2016 có hành vi đánh bạc bị khởi tố, điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú”, trong thời gian chờ xét xử Nguyễn Dương T thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích. Ngày 22/6/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 20/2017/HSPT.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.
2. Hà Đức A, sinh ngày 08/6/1996 tại huyện V, tỉnh Yên Bái.
Nghề nghiệp: Lao động tư do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Thái. Con ông Hà Nam T (Đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957.
Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;
Về nhân thân: Hà Đức A, sinh ngày 08/6/1996 tại xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã A, huyện V, tỉnh Yên Bái. Ngày 07/11/2016 có hành vi đánh bạc bị khởi tố, điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú”, trong thời gian chờ xét xử Hà Đức A thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích. Ngày 21/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2017/HSST.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại:
Anh Trịnh Mạnh C, sinh năm 1988. Có mặt
Trú tại: Thôn 4, xã Y, huyện V, tỉnh Yên Bái.
* Người có nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Thế T, sinh năm 1995. Có mặt
Trú tại: Tổ 1, khu p, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 21 giờ ngày 19/02/2017 Trịnh Mạnh C đến quán nước của chị Phạm Thị Hoài T ở vỉa hè công viên thuộc khu p, thị trấn M để uống nước. Tại đây C gặp Nguyễn Dương T, Nguyễn Trung T, Dương Văn V, Nguyễn Văn H đang ngồi uống nước tại đó. Trong lúc uống nước giữa C và T xẩy ra mâu thuẫn, đánh chửi nhau nhưng được mọi người can ngăn. Sau đó T điều khiển xe mô tô đi sang nhà anh Nguyễn Văn Đ ở thôn C, xã A lấy 02 con dao, một con dao quắm dài 01m cán bằng gỗ và 01 con dao nhọn dài khoảng 80cm cán dao bằng kim loại. Tùng cầm dao điều khiển xe sang thị trấn M với mục đích để đánh C. Trên đường đi T nhìn thấy Hà Đức A đang ngồi uống nuốc với Nguyễn Thế T, Nguyễn Duy H và Lã Trọng M đang ngồi uống nước tại quán nước thuộc khu 3, thị trấn M. Tùng gọi Hà Đức A ra kể cho A nghe việc T bị C chửi và dọa đánh, T rủ A đi đánh C thì A đồng ý. A ngồi lên điều khiển xe mô tô, T ngồi sau xe, trên đường đi T đưa cho A con dao quắm. Trong lúc T nói chuyện với A thì T trong quán nghe thấy nên khi T và A đi T cũng đi theo. Đến quán nước của chị T, A đỗ xe dưới lòng đường, T xuống xe gọi C ra nói chuyện nhưng C không ra mà vẫn ngồi uống nước. Thấy vậy, T cầm dao nhọn lao vào đánh C thì được anh D cản lại, A dùng tay phải cầm dao quắm lao vào chém một nhát từ trên xuống dưới trúng vào bả vai trái của C, C quay người lại thì A chém thêm một nhát trúng vào bả vai phải, T đứng phía sau dùng dao nhọn chém một nhát theo chiều từ phải sang trái chéo chếch từ trên xuống dưới làm mũi dao trúng vào mạn sườn bên trái của C. Bị chém C lùi lại va vào chiếc xe mô tô dựng trên vỉa hè làm xe bị đổ, C ngã ngửa nằm đè lên xe; thấy vậy A lại chém thêm một nhát về phía C, C dơ tay trái lên đỡ và dùng tay phải bất giữ được phần lưỡi dao, khi C giằng co con dao với A thì T cầm tuýp sắt dài khoảng 40cm, rộng 0,2cm (do T mang theo từ trước) lao vào vụt hai, ba cái vào phía chân trái của C. Lúc này anh D và anh V vào đẩy A ra, giằng con dao từ tay A và can không cho ai đánh C nữa. Sau đó A ra xe mô tô chở theo T về nhà ở thôn C, xã A; T điều khiển xe mô tô đi theo T và A đến cầu M thì T vứt đoạn tuýp sắt xuống lề đường rồi điều khiển xe quay về quán điện tử ở khu p, thị trấn M chơi. Sau đó Trịnh Mạnh C được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện V và điều trị thương tích từ ngày 19/02/2017 đến 27/02/2017 thì ra viện. Ngày 20/02/2017 Trịnh Mạnh C làm đơn tố cáo hành vi của T và A.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 33/TgT ngày 31/3/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Yên Bái kết luận:
- Sẹo vùng ô mô cái bàn tay phải sẹo kích thước trung bình, sẹo xấu, nhăm rúm, cứng, đau: 07%; Sẹo cánh tay trái: 02%; Sẹo cẳng tay trái: 01%; Sẹo mạn sườn trái: 01%; Sẹo bả vai phải: 01%;
- Chân trái hiện không còn dấu vết thương tích, không xác định tỷ lệ tổn hại phầm trăm sức khỏe: 0%;
- Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trịnh Mạnh C tại thời điểm giám định tổng cộng là 12%.
Về trách nhiệm dân sự anh Trịnh Mạnh C yêu cầu các bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền là 50.000.000đ.
Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 con dao nhọn, cán bằng kim loại, chiều dài cả cán là 82,5cm, cán dạng tròn, đường kính 2,5cm, dài 52cm được cuốn bằng dây cau su màu đen; phần lưỡi dao dài 30,5cm, chỗ rộng nhất 4,8cm và 01 con dao quắm dài 01m, dao có phần lưỡi dài 40cm, phần cán dao được chêm một đoạn gỗ dài 60cm, trên lưỡi dao có dính vết máu, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 05cm.
Tại bản cáo trạng số 49/KSĐT-MT ngày 20/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã truy tố các bị cáo Nguyễn Dương T, Hà Đức A về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái giữ nguyên quyết định truy tố; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Dương T, Hà Đức A phạm tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 51 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 41 của Quốc hội; khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Dương T từ 02 năm 06 tháng đến 3 năm tù; xử phạt Hà Đức A từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt bản án trước buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù; bị cáo A phải chấp hành hình phạt chung từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm 03 tháng tù. Đồng thời buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho người bị hại và xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, các bị cáo không có tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt ở mức thấp nhất.
Người bị hại anh Trịnh Mạnh C trình bày nội dung sự việc như bản cáo trạng đã nêu, anh không có tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định của pháp luật và buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, người bị hại và những chứng cứ tài liệu khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với bản kiểm điểm, các bản khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có nghĩa vụ liên quan, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:
Vào khoảng 21 giờ ngày 19/02/2017 tại quán bán nước của chị Phạm Thị Hoài T ở vỉa hè khu công viên thuộc khu p, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái; sau khi bị Trịnh Mạnh C chửi và dọa đánh, Nguyễn Dương T lấy 02 con dao, sau đó rủ thêm Hà Đức A đi đánh C, A đồng ý. Cả hai đi đến quán nước của chị T. Hà Đức A tay phải cầm 01 con dao quắm dài khoảng 1m cán dao bằng gỗ lao vào chém một nhát từ trên xuống dưới trúng vào bả vai anh C, anh C quay lại thì bị A chém thêm một nhát trúng vào vai phải, khi anh C bị ngã A lại chém thêm một nhát về phía C, anh C dơ tay trái lên đỡ và dùng tay phải bắt giữ được lưỡi dao. T dùng con dao nhọn tự chế dài khoảng 80cm bằng kim loại chém một nhát theo chiều từ phải sang trái chéo chếch từ trên xuống dưới theo hướng từ sau ra trước, mũi dao nhọn trúng vào mạn sườn bên trái của anh C. Hậu quả làm anh Trịnh Mạnh C bị thương ở bàn tay phải, cánh tay trái, cẳng tay trái, mạn sườn trái và bả vai phải với tổng tỷ lệ thiệt hại 12% sức khỏe. Hành vi dùng dao nhọn, dao quắm là hoại hung khí nguy hiểm liên tiếp chém về phía anh Trịnh Mạnh C như đã nêu trên của Nguyễn Dương T và Hà Đức A đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng định khung là dùng hung khí nguy hiểm theo điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự gây thiệt hại 12% sức khỏe nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội mà các bị cáo Nguyễn Dương T, Hà Đức A thực hiện thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi đó là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành đi đó không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương; gây tâm lý hoang mang cho bà con nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục riêng và đấu tranh, phòng ngừa chung.
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó Nguyễn Dương T là người khởi xướng dùng dao chém Trịnh Mạnh C, còn Hà Đức A là người được T rủ rê, A cùng T dùng dao chém nhiều nhát vào người Trịnh Mạnh C nên các bị cáo phải cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả do các bị cáo gây ra. Vì vậy phải xử lý nghiêm minh, có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do từng bị cáo gây ra.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xét nhân thân của từng bị cáo Hội đồng xét xử thấy:
Đối với Nguyễn Dương T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có hiểu biết về pháp luật và xã hội, biết việc xâm phạm sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật. Trong vụ án này bị cáo là người khởi xướng, chủ mưa, rủ rê lôi kéo bị cáo Hà Đức A vào con đường phạm tội nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự chính, với mức hình phạt nghiêm khắc hơn. Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 23/8/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 năm về tội “Trộm cắp tài sản" ; Ngày 21/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản". Bị cáo đã chấp hành xong bản án, đã được xóa án tích nên không bị coi là có tiền án. Ngày 07/11/2016 có hành vi đánh bạc bị khởi tố, điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú”, trong thời gian chờ xét xử thì ngày 19/02/2017 Nguyễn Dương T thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích. Điều đó thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Do ngày 22/6/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xử phạt 01 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” nên lần phạm tội này của bị cáo không bị coi là tái phạm.
Đối với Hà Đức A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có hiểu biết về pháp luật và xã hội, biết việc xâm phạm sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật. Trong vụ án này bị cáo là người bị Nguyễn Dương T rủ rê, lôi kéo vào con đường phạm tội nhưng là người thực hành rất tịch cực nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả do mình gây ra nhưng với vai trò sau bị cáo T. Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 07/11/2016 có hành vi đánh bạc bị khởi tố, điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú”, trong thời gian chờ xét xử thì ngày 19/02/2017 thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là kém. Do ngày 21/3/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” nên lần phạm tội này không bị coi là tái phạm.
Khi quyết định hình phạt có xem xét tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, tổ thái độ hối hận nên cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Đồng thời áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Từ những phân tích nêu trên xét thấy cần có một mức hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hình vi phạm tội do từng bị cáo gây ra; việc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện. Do trước đó các bị cáo đều bị xử phạt nên việc tổng hợp hình phạt của các bản án được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Trịnh Mạnh C yêu cầu các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 50.000.000đ. Xét thấy việc anh C bị thương tích, tổn hại 12% sức khỏe là do các bị cáo Nguyễn Dương T và Hà Đức A gây ra nên các bị cáo phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho anh C theo quy định tại các Điều 584, 585, 588, 590 Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể các khoản như sau:
Chi phí cho việc điều trị tại bệnh viện là 460.300đ;
Tiền thu nhập bị mất trong thời gian anh C điều trị từ ngày 19 đến ngày 27/02/2017 là 200.000đ/ngày x 9 ngày = 1.800.000đ;
Tiền công người chăm sóc anh C trong thời gian điều trị tại bệnh viện là 200.000đ/ngày x 9 ngày x 1 người = 1.800.000đ;
Tiền thu nhập bị giảm sút sau khi điều trị ở bệnh viện với số tiền là 5.000.000đ;
Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm bằng 15 tháng lương tối thiểu x 1.300.000đ/tháng = 19.500.000đ.
Tổng cộng là 28.560.300đ (Hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn ba trăm đồng), phần bồi thường của mỗi bị cáo là 28.560.300đ/2 = 14.280.150đ (Mười bốn triệu hai trăm tám mười nghìn, một trăm năm mươi đồng).
Đối với Nguyễn Thế T là người dùng tuýp sắt vụt hai, ba cái vào chân trái của anh Trịnh Mạnh C. Trọng không được bàn bạc trước, cả T và A không rủ T đi đánh anh C mà do T nghe thấy T rủ A đi thì T tự đi theo nên T không đồng phạm với T và A về hành vi Cố ý gây thương tích. Mặt khác tại bản kết luận giám định thương tích tại chân trái của anh C không còn dấu vết thương tích, tỷ lệ phần trăm sức khỏe bị mất là 0% nên Cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính đối với Nguyễn Thế T là phù hợp.
Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 con dao nhọn, cán bằng kim loại, chiều dài cả cán là 82,5cm, cán dạng tròn, đường kính 2,5cm, dài 52cm được cuốn bằng dây cau su màu đen; phần lưỡi dao dài 30,5cm, chỗ rộng nhất 4,8cm và 01 con dao quắm dài 01m, dao có phần lưỡi dài 40cm, phần cán dao được chêm một đoạn gỗ dài 60cm, trên lưỡi dao có dính vết máu, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 05cm. Cả hai con do này là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Do các bị cáo phạm tội, bị xử phạt và phải bồi thường thiệt hại nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các bị cáo, người bị hại, người liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Dương T, Hà Đức A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Dương T 02 năm 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bán án này với hình phạt của Bản án hình sự phúc thẩm số 20/2017/HSPT ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái buộc bị cáo Nguyễn Dương T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 27/02/2017.
- Xử phạt bị cáo Hà Đức A 02 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bán án này với hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2017/HSST ngày 21/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái buộc bị cáo Hà Đức A phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 27/02/2017.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 588, 590 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc các bị cáo Nguyễn Dương T, Hà Đức A phải liên đới bồi thường thiệt hại cho anh Trịnh Mạnh C tổng số tiền là 28.560.300đ (Hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn ba trăm đồng). Phần bồi thường của mỗi bị cáo là 14.280.150đ (Mười bốn triệu hai trăm tám mười nghìn một trăm năm mươi đồng).
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất được thực hiện theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao nhọn, cán bằng kim loại, chiều dài cả cán là 82,5cm, cán dạng tròn, đường kính 2,5cm, dài 52cm được cuốn bằng dây cau su màu đen; phần lưỡi dao dài 30,5cm, chỗ rộng nhất 4,8cm và 01 con dao quắm dài 01m, dao có phần lưỡi dài 40cm, phần cán dao được chêm một đoạn gỗ dài 60cm, trên lưỡi dao có dính vết máu, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 05cm.
5. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo Nguyễn Dương T và Hà Đức A phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 714.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6 ,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các bị cáo, người bị hại, người có nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 46/2017/HSST ngày 10/08/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 46/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về