TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H - TỈNH HƯNG YÊN
BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/10/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hưng Yên mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2019/TLST-HS ngày 03/10/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HS ngày 10/10/2019, đối với bị cáo:
Họ và tên: Mai Văn G, sinh năm 1981 tại huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; HKTT: CG, phường AT, thành phố H, tỉnh Hưng Yên; Nơi ở: Đội X, thôn LS, xã TP, huyện TL, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1946; Gia đình có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ là chị Nguyễn Thị Hoa, sinh năm 1984; Có một con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:
- Bản án số 42/PTHS ngày 16/8/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 30 tháng tù giam về tội Cướp tài sản của công dân. Tháng 8/2002 chấp hành xong hình phạt.
- Bản án số 08/HSST ngày 28/4/2003, Tòa án nhân dân thị xã H (nay là thành phố H) xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
- Bản án số 31/2008/HSST ngày 04/12/2008, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tháng 11/2010, chấp hành xong hình phạt.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 13/06/2019, chuyển tạm giam ngày 14/06/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng: Anh Hoàng Văn K- Vắng mặt.
Địa chỉ: Đội K, thôn AC1, xã LP, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 13/06/2019, Mai Văn G đi bộ từ nhà tới khu vực cầu TD thuộc địa phận huyện H2, tỉnh Thái Bình với mục đích tìm mua Heroin để sử dụng. Tại đây G gặp một người đàn ông có dáng vẻ giống người nghiện, không quen biết. G lại gần và hỏi mua ma túy với số tiền 400.000 đồng. G đưa tiền cho người đàn ông này thì người này lấy trong người ra một gói giấy nhỏ màu trắng đưa lại cho G. G mở ra xem và và tự xác định được đó là Heroin lên gói lại cất vào túi quần bên phải phía trước và bắt xe buýt tìm chỗ để sử dụng ma túy, tới địa phận xã LP thì G xuống xe. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, khi G đi bộ tại khu vực ngã ba giao nhau giữa đường D và quốc lộ 39 thuộc địa phận thôn AC2, xã LP, thành phố H thì bị tổ công tác của Công an thành phố H tiến hành kiểm tra và bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong có chứa chất kết tinh màu trắng dạng cục và bột.
Cùng ngày 13/06/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố H khám xét khẩn cấp nơi ở của Mai Văn G. Quá trình khám xét không thu giữ gì đồ vật, tài liệu gì.
Kết luận giám định 377/PC09 ngày 13/06/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi thu của Mai Văn G có khối lượng: 0,194 gam là ma túy, là loại Heroine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định 0,166 gam Heroine được niêm phong ghi thu của Mai Văn G.
Quá trình điều tra Mai Văn G thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ phép chất ma túy của mình.
Tại bản cáo trạng số: 46/CT-VKS-TPHY ngày 02/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Mai Văn G về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Mai Văn G từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/6/2019 và không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu cho tiêu hủy 0,166 gam Heroine trong niêm phong được hoàn lại sau giám định; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Lời khai nhân tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Trên cơ sở đó có đủ căn cứ xác định: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 13/6/2019, tại khu vực ngã ba giao nhau giữa đường D và đường quốc lộ 39 thuộc thôn AC2, xã LP, thành phố H, tỉnh Hưng Yên. Mai Văn G đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,194 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Hành vi trên của Mai Văn G đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Mai Văn G về tội danh và áp dụng điều luật như bản Cáo trạng viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về quyết định hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, góp phần làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng gia tăng. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy và có nhân thân xấu, có 03 tiền án đã được xóa án tích về tội các tội Cố ý gây thương tích, Trộm cắp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người công dân tốt mà tiếp tục sử dụng ma túy dẫn tới bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Xét thấy cần thiết bắt bị cáo cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo sau này không tái phạm và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có nghề nghiệp là lao động tự do, thu nhập không ổn định, bản thân bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: 0,150 gam Heroine được hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu cho tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Mai Văn G phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Mai Văn G 01 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/6/2019.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định của PC09-Công an tỉnh Hưng Yên. Bên trong có 0,166 gam Heroine thu của Mai Văn G còn nguyên niêm phong.
(Vật chứng trên có đặc điểm, trọng lượng theo Quyết định chuyển vật chứng số 36/QĐ-VKS ngày 02/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H).
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Mai Văn G phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 45/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 45/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hưng Yên - Hưng Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về