Bản án 45/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2019/TLST-HS ngày 24/5/2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn D; sinh năm: 1988; tại xã HL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: thôn KL, xã HL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Hà Thị L; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không. Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/02/2019 đến ngày 28/02/2019 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Đồng Văn D; sinh năm: 1996; tại xã HL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: thôn KL, xã HL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn T và bà Nguyễn Thị T; vợ là Nguyễn Thị T và có hai con; tiền án, tiền sự: không. Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/02/2019 đến ngày 28/02/2019 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Ông Trịnh Xuân H; sinh năm 1961; nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 19 tháng 02 năm 2019 tại khu dân cư, đường Cao Thắng, tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, tổ công tác Công an huyện Hà Trung phối hợp với Công an thị trấn Hà Trung phát hiện Phạm Văn D và Đồng Văn D đang điều khiển xe máy có biểu hiện nghi vấn, Tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện, thu giữ ở tay trái Phạm Văn D một gói nhỏ bọc bên ngoài bằng nilon màu xanh, tiếp đến là lớp giấy trắng, trong cùng có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn, nghi là ma túy. Kiểm tra người Đồng Văn D và xe máy không phát hiện thu giữ gì. Ngay tại chỗ Đồng Văn D và Phạm Văn D khai nhận gói nhỏ Công an mới thu giữ trên là ma túy do D và D góp tiền để mua về sử dụng chung. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn D và Đồng Văn D, niêm phong gói ma túy mới thu giữ.

Tang vật thu giữ gồm: Một gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu xanh, tiếp đến là lớp giấy trắng, trong cùng chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn được niêm phong ký hiệu “Vụ Phạm Văn D + Đồng Văn D”; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 xe máy biển kiểm soát 36K1-5147.

Ngày 21/02/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung có Quyết định trưng cầu giám định số 33/QĐ-CAHT giám định chất ma túy. Tại bản kết luận giám định số: 629/MT-PC09 ngày 24/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì ký hiệu “Vụ Phạm Văn D + Đồng Văn D” niêm phong gửi giám định là ma túy, có trọng lượng (khối lượng) 0,295g (không phẩy hai chín năm gam) loại: Heroine.

Quá trình điều tra, Phạm Văn D và Đồng Văn D khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 02 năm 2019, Phạm Văn D và Đồng Văn D gặp nhau ở thôn KL, xã HL, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa, D rủ D góp tiền đi mua ma túy về sử dụng, D đồng ý nhưng do D không có tiền nên đã đưa cho D 01 chiếc điện thoại Nokia 1102 màu xanh và xem như góp với D 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau đó, D đưa cho D 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), D điều khiển xe môtô biển kiểm soát 36K1-5147 (D mượn của bố tên là Phạm Văn K) chở D sang thị trấn Hà Trung mua ma túy, cả hai đi đến đường nhỏ bên cạnh Công ty Thuốc lá Thanh Hóa đến ngã ba thì dừng lại, D xuống xe đứng đợi, còn D đi xe vào thêm một đoạn khoảng 50m thì dừng xe cạnh chỗ một thanh niên đang đứng bên đường hỏi mua một gói ma túy bên ngoài bọc nilon màu xanh với giá 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng). D cầm gói ma túy ở tay trái đi xe ra đón D về, khi cả hai đi được một đoạn thì bị Công an phát hiện, kiểm tra và thu giữ gói ma túy trên tay Phạm Văn D. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn D và Đồng Văn D, niêm phong gói ma túy mới thu giữ.

Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 23/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Xử phạt bị cáo Đồng Văn D từ 18 tháng đến 21tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Ngày 19/02/2019, Phạm Văn D và Đồng Văn D đã có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,295 gam nhằm mục đích sử dụng trái phép. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là loại chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành, trong đó Phạm Văn D là người khởi xướng và thực hiện tội phạm tích cực nhất nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với Đồng Văn D.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong vụ án này, Phạm Văn D khai đã mua ma túy của một nam thanh niên không biết tên và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

[3]. Về vật chứng: Số ma túy cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu huỷ. Chiếc xe môtô biển kiểm soát 36K1-5147, quá trình điều tra đã xác định được đây là xe của ông Phạm Văn K (bố Phạm Văn D), ông K không biết D sử dụng chiếc xe của mình để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc xe cho ông K là đúng quy định. Chiếc điện thoại Nokia 1102 là tài sản thuộc sở hữu của Phạm Văn D góp cùng D để mua ma túy, D cũng không yêu cầu trả lại nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[4]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Các bị cáo Phạm Văn D và Đồng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 19/02/2019.

Xử phạt bị cáo Đồng Văn D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 19/02/2019.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: Toàn bộ số Heroine còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong (Đặc điểm của phong bì niêm phong theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 05/6/2019).

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại NOKIA 1102, màu xanh, số IMEL là 357810/06/720673/1, đã qua sử dụng.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Phạm Văn D và Đồng Văn D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về