Bản án 45/2018/DS-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự (tiền hụi)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 45/2018/DS-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ (TIỀN HỤI)

Ngày 17/10/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh BìnhDương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:194/2018/TLST-DS ngày 24/5/2018 về việc tranh chấp hợp đồng dân sự (tiền hụi), theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2018/QĐXXST-DS ngày 14/9/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị A, sinh năm 1959; HKTT: Ấp X, xã T, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Ngọc N, sinh năm 1981; HKTT: Ấp X, xã T, huyệnDầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn bà A có mặt tại phiên tòa. Bị đơn bà N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do .

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 17/5/2018, bản tự khai, biên bản làm việc, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phan Thị A trình bày:

Bà A làm chủ hụi còn bà N là hụi viên. Bà N tham gia chơi của bà A 01dây hụi tháng với số tiền 1.000.000 đồng, mở ngày đầu tiên là 25/7/2016, hụi có17 phần, hụi mãn ngày 25/11/2017. Bà N tham gia chơi 01 phần hụi và hốt hụi vào ngày 25/8/2016 và bà A đã giao tiền hụi cho bà N đầy đủ. Khi giao tiền hụi thì bà N có ký nhận tiền hụi và xác nhận còn nợ tiền hụi chết là 15 tháng tương đương tổng số tiền là 15.000.000 đồng, “Giấy giao hụi” là do bà A viết và bà N ký tên và ghi họ tên xác nhận. Sau đó, bà N đã đóng hụi chết cho bà A được 02 tháng tương đương số tiền là 2.000.000 đồng thì bà N không đóng nữa cho đến nay. Việc bà N đã đóng 02 tháng hụi chết, bà A không lập giấy tờ giao nhận gì đối với bà N. Tính đến nay, bà N còn nợ bà A 13 tháng hụi chết với số tiền là 13.000.000 đồng.

Bà A xác định, quy trình làm chủ hụi và chơi hụi của bà A: Sau khi mời các hụi viên đồng ý tham gia chơi hụi, bà A lập danh sách hụi viên trong đó thể hiện tên dây hụi là bao nhiêu tiền, ngày mở hụi, số phần hụi và ngày mãn hụi rồi giao cho mỗi hụi viên một bản để theo dõi. Bà A lập sổ hụi cái để theo dõi việc thu gom hụi và giao hụi, ai hốt hụi ngày nào thì ghi số tiền kêu hụi và hốt hụi còn người đóng hụi sống thì ghi số tiền hụi sống phải đóng, còn người đóng tiền hụi chết thì ghi số tiền đóng hụi chết. Người nào chưa đóng thì bỏ trống không ghi và sẽ ghi bù vào khi họ đóng đủ tiền.

Nay, bà A khởi kiện yêu cầu buộc bà N có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền nợ hụi là 13.000.000 đồng của dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 25/7/2016, mãn hụi ngày 25/11/2017.

Chứng cứ nguyên đơn bà A cung cấp: 01 đơn khởi kiện ngày 17/5/2018, bản sao giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu thường trú của nguyên đơn bà A, 01 giấy giao hụi lập ngày 25/8/2016 (đã được đối chiếu bản gốc), 01 b ản sao danh sách hụi viên và quá trì nh thu gôm hụi (trích sao từ sổ hụi cái, đã được đối chiếu bản gốc), bản tự khai ngày 18/5/2018 của bà A, biên bản làm việc ngày 05/7/2018.

* Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 26/6/2018 bị đơn bàHuỳnh Ngọc N trình bày:

Bà A làm chủ hụi còn bà N là hụi viên. Bà N tham gia chơi của bà A 01 dây hụi tháng với số tiền 1.000.000 đồng, mở ngày đầu tiên là 25/7/2016, hụi có17 phần. Bà N tham gia chơi 01 phần hụi và hốt hụi vào ngày 25/8/2016 với số tiền hốt được là 17.000.000 đồng. Số tiền hốt hụi, bà A có trừ tiền hoa hồng chobà A chủ hụi là 500.000 đồng và trả tiền nợ của bà A là 1.500.000 đồng, số tiền thực nhận là 15.000.000 đồng. Khi nhận tiền hụi, bà N có ký tên xác nhận vào giấy nhận tiền hụi do bà A viết. Bà N xác định đã đóng xong tiền hụi cho bà A, không còn nợ tiền hụi của bà A vì bà N là người hốt hụi cuối cùng. Ngoài ra, bà N thừa nhận còn nợ bà A số tiền đã vay trước đó là 4.000.000 đồng chưa trả.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ban hành Thông báo s ố 81/TB-TA ngày 07/8/2018 về việc yêu cầu bà N cung cấp chứng cứ chứng minh đã đóng xong tiền hụi chết cho bà A nhưng bà N không hợp tác, không cung cấp được chứng cứ.

Bà N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng bà N vắng mặt không có lý do nên không thu thập được ý kiến tại phiên hòa giải và phiên tòa.

Chứng cứ bị đơn bà N cung cấp: biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 26/6/2018.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dâ n huyện Dầu Tiếng (ôngThịnh) có ý kiến:

Quá trình tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, công khai chứng cứ, hòa giải, xét xử đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà A có mặt, bị đơn bà N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử vụ án tiến hành xét xử vắng mặt bà N theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quan hệ pháp luật tranh chấp “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền hụi)”. Về thủ tục tố tụng, không kiến nghị, khắc phục. Về nội dung vụ án, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Từ những tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Sau khi nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà A có mặt, bị đơn bà N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng để bị đơn bà N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Việc vắng mặt của bị đơn bà N là cố tình nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà N theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Bà A khởi kiện bà N về việc tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền hụi) với số tiền là 13.000.000 đồng. Bà Như có nơi cư trú tại ấp X, xã T, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền hụi).

 [3] Theo đơn khởi kiện ngày 17/5/2018, bà A khởi kiện bà N yêu cầu thanh toán tổng số tiền là 13.000.000 đồng là tiền hụi chết còn nợ của dây hụi tháng với số tiền 1.000.000 đồng, mở ngày 25/7/2016, hụi có 17 phần và bà N tham gia 01 phần, hụi mãn ngày 25/11/2017. Theo bà A, bà N hốt hụi vào ngày 25/8/2016 và còn phải đóng 15 kỳ hụi chết tương ứng số tiền 15.000.000 đồng nhưng bà N chỉ đóng được 02 kỳ với số tiền là 2.000.000 đồng, còn nợ lại 13.000.000 đồng. Chứng cứ bà A cung cấp là giấy giao hụi lập ngày 25/8/2016, 01 bản sao danh sách hụi viên và quá trì nh thu gom hụi (trích sao từ sổ hụi cái) đã thể hiện đúng như lời trình bày của bà A.

 [4] Theo biên bản lấy lời khai đương sự ngày 26/6/2018, bà N xác định có tham gia chơi hụi đúng như bà A trình bày, đúng ngày hốt hụi là ngày 25/8/2016 nhưng lại xác định là người hốt cuối, đã đóng xong hết tiền hụi cho bà A. Lời trình bày của bà N là không phù hợp, bởi hụi có 17 phần, ngày 25/8/2016 chỉ là kỳ khui hụi thứ hai, không phải kỳ cuối. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ban hành Thông báo số 81/TB-TA ngày 07/8/2018 về việc yêu cầu bà N cung cấp chứng cứ chứng minh đã đóng xong tiền hụi chết cho bà A nhưng bà N không hợp tác, không cung cấp được chứng cứ.

 [5] Xem xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ các bên đương sự cung cấp, sự thừa nhận của các bên và tranh tụng công khai tại phiên tòa có căn cứ xác định bà N vẫn còn nợ bà Ah số tiền hụi chết của 13 phần hụi tương ứng với số tiền là 13.000.000 đồng. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của bà A là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận theo Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015 được hướng dẫn tại Nghị định 144/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường.

 [6] kiến của đại diện Viện kiểm sát về phần các thủ tục tố tụng cũng như về nội dung vụ án là phù hợp pháp luật.

 [7] Về án phí: Bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân năm 2015;

- Căn cứ Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị A đối với bà Huỳnh Ngọc N về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản (tiền hụi)”. Buộc bà Huỳnh Ngọc N có trách nhiệm thanh toán cho bà Phan Thị A số tiền 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà N không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng bà N còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Bà Huỳnh Ngọc N phải chịu số tiền là 650.000 đồng (sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

2.2. Hoàn trả cho bà Phan Thị A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 325.000 đồng (ba trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0011852 ngày 18/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 17/10/2018).

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/DS-ST ngày 17/10/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự (tiền hụi)

Số hiệu:45/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về