Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 17/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 145/2021/TLST– HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST–HNGĐ ngày 06/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Ngọc Th, sinh năm 1983; địa chỉ thường trú: Khu phố 1A, phường Ch, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Ông Trần Thanh H, sinh năm 1976; địa chỉ thường trú: Khu phố 1A, phường Ch, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 09/3/2021 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Trần Ngọc Th trình bày:

Bà Th và ông H chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương vào năm 2001 theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 25/02001 ngày 09/7/2001. Hôn nhân giữa bà Thúy và ông Hải hoàn toàn tự nguyện. Vợ chồng bà Thúy và ông Hải chung sống hạnh phúc với nhau một thời gian đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi vã, ông Hải thường xuyên đánh bạc, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình. Trên thực tế vợ chồng bà Th và ông H đã sống ly thân với nhau. Nhận thấy, hôn nhân giữa bà Th và ông H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà Th khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Qúa trình sống chung giữa bà Trần Ngọc Th và ông Trần Thanh H có 02 con chung tên Trần Thanh L, sinh năm 2000 và Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004. Khi ly hôn, cháu Trần Thanh L, sinh năm 2000 đã trưởng thành nên bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với cháu Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004, bà Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004, không yêu cầu ông Trần Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nhng chứng cứ, tài liệu nguyên đơn đã cung cấp: Bản sao Chứng minh nhân dân mang tên Trần Ngọc Th, Trần Thanh L; sổ hộ khẩu do Trần Thanh H đứng tên chủ hộ; trích lục kết hôn; giấy khai sinh; đơn đề nghị không tiến hành hoà giải đối thoại (bản chính).

Đối với bị đơn ông Trần Thanh H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ, tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông H không chấp hành theo giấy triệu tập, vắng mặt không có lý do. Ông H không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà Th và không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên toà:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật và có đơn xin xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử, nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

- Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn và yêu cầu nuôi con chung với bị đơn nên quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có đăng ký địa chỉ thường trú tại khu phố 1A, phường Ch, thị xã B, tỉnh Bình Dương nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc có mặt, vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn bà Trần Ngọc Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Trần Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn trên cơ sở tự nguyện đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương vào năm 2001 theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 25/02001 ngày 09/7/2001. Như vậy, hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình tố tụng, nguyên đơn xác định giữa nguyên đơn và bị đơn phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, không thể hàn gắn được. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi vã, ông H thường xuyên đánh bạc, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình và trên thực tế vợ chồng bà Th và ông H đã sống ly thân với nhau. Hiện tại, nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn.

Qúa trình tham gia tố tụng, bị đơn ông H không tham gia và cũng không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó, xem như bị đơn từ bỏ quyền chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn không còn hạnh phúc. Nguyên đơn xác định vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau, nguyên đơn xác định không còn tình cảm với bị đơn. Bị đơn không tham gia tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến. Cho thấy bị đơn không có thiện chí hoà giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình. Mặt khác, tại Biên bản xác minh tại địa phương ngày 05/4/2021, chính quyền địa phương xác định quá trình sinh sống tại địa phương giữa bà Trần Ngọc Th và ông Trần Thanh H có phát sinh mâu thuẫn và hiện tại vợ chồng bà Th và ông H không còn chung sống với nhau. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa bà Trần Ngọc Th và ông Trần Thanh H có 02 người con chung tên: Trần Thanh L, sinh năm 2000 và Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004. Khi ly hôn, bà Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004. Xét thấy tại Bản tự khai 05/4/2021, nguyện vọng của cháu Trần Thị Mỹ L muốn được sống c ng với bà Trần Ngọc Th. Mặt khác, bà Th cũng là người chăm sóc và nuôi dưỡng cháu L từ nhỏ. Do đó, việc giao cháu L cho bà Th tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là ph hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Đối với cháu Trần Thanh L, sinh năm 2000, khi ly hôn, cháu L đã trưởng thành bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Th không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi cháu L nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn bà Th không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và ph hợp với quy định của pháp luật nên có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Ngọc Th về việc:

Ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Trần Thanh H.

- Về hôn nhân: Bà Trần Ngọc Th được ly hôn với ông Trần Thanh H.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 25/2001 do Ủy ban nhân dân xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 09/7/2001 cho bà Trần Ngọc Th và ông Trần Thanh H không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004 cho bà Trần Ngọc Th được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Ông Trần Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 25/10/2004.

Ông Trần Thanh H có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông H thực hiện các quyền, nghĩa vụ này. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Đối với cháu Trần Thanh L, sinh năm 2000 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết

- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Trần Ngọc Th phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn ) đồng tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0054423 ngày 30/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 17/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về