Bản án 44/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

HÀ VĂN N. Tên gọi khác: không. Sinh ngày 08/4/2002 tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi ở: Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Văn H (đã chết) và bà: Đinh Thị N (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019, giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp, người bào chữa cho bị cáo:

Ông Hà Văn D, sinh năm 1954. Địa chỉ: Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Hà Thị M, sinh năm 1977. Địa chỉ: Bản A, xã B, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 02 giờ 30 phút ngày 26/4/2019 tổ công tác Công an xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn làm nhiệm vụ tại bản Thủy Lợi, xã Chiềng Mai phát hiện Hà Văn N đang điều khiển xe máy nhãn hiệu WAVE - ZX, biển kiểm soát 26H2-0677 đi hướng từ bản Cứp ra bản Thủy Lợi, xã Chiềng Mai có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu Hà Văn N dừng xe để kiểm tra, có ma túy thì tự giác giao nộp. N tự giác lấy 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén màu hồng mỗi viên đều có ký hiệu “WY” nghi là ma túy tổng hợp từ trong khoang rỗng của miếng đệm cao su ở vị trí gác chân bên phải xe máy giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hà Văn N thu giữ, niêm phong vật chứng nêu trên và thu giữ 01 xe máy nhãn hiệu WAVE - ZX, biển kiểm soát 26H2-0677, vỏ màu đỏ đen.

Quá trình điều tra Hà Văn N khai nhận:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 26/4/2019, Hà Văn N mang theo 200.000VNĐ điều khiển xe máy biển kiểm soát 26H2-0677 đi từ nhà ở Bản A, xã B đến bản Cứp, xã Chiềng Mai để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản Cứp, N gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, N dừng xe hỏi mua 200.000VNĐ hồng phiến và đưa tiền, người đàn ông cầm tiền rồi đưa cho N01 gói được gói bằng mảnh nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén màu hồng. N cầm gói ma túy và tháo miếng đệm cao su để chân bên phải của xe máy ra giấu gói ma túy vào khoang rỗng trong miếng đệm cao su rồi gắn lại như ban đầu. Sau đó, Hà Văn N điều khiển xe đi về, khi đi đến khu vực bản Thủy Lợi, xã Chiềng Mai thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang, thu giữ và niêm phong toàn bộ vật chứng.

Ngày 26/4/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định đối với vật chứng thu giữ của Hà Văn N. Kết quả: Tổng khối lượng 02 viên nén màu hồng là 0,2gam; trích rút toàn bộ làm mẫu giám định, ký hiệu M.

Ngày 29/4/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 823, kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu M là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,2gam loại Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 45/CT-VKSMS ngày 24/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Hà Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 91, khoản 1 Điều 101; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hà Văn N từ 09 đến 11 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, mảnh nilon gói ma túy ban đầu, que thử nước tiểu được niêm phong theo quy định.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hà Thị M 01 xe máy nhãn hiệu Wave ZX, biển kiểm soát 26H2-0677, màu son đỏ đen.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo Hà Văn N tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị được nhận lại tài sản là 01 xe máy nhãn hiệu Wave ZX, biển kiểm soát 26H2-0677, màu sơn đỏ đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hà Văn N khai nhận: Hà Văn N là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 26/4/2019 Hà Văn N đã mua trái phép 200.000VNĐ Methamphetamine để sử dụng cho bản thân và đã bị tổ công tác Công an xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La bắt quả tang thu giữ 0,2gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 02 giờ 40 phút ngày 26/4/2019 của tổ công tác Công an xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 15 giờ 30 phút ngày 26/4/2019 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn; phù hợp với kết luận giám định số 823 ngày 29/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn.

Với việc tàng trữ 0,2gam Methamphetamine mục đích để sử dụng đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hà Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 45/CT-VKSMS ngày 24/6/2019 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Bị cáo Hà Văn N khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, tuy nhiên bị cáo đã có thể nhận thức được mức độ nghiêm trọng của hành vi do mình thực hiện, biết việc tàng trữ, sử dụng các chất ma túy là vi phạm pháp luật; tuy nhiên, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm gia tăng tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội. Do đó, xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về việc đã làm. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo khi xem xét mức hình phạt.

Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi (17 tuổi 18 ngày), bị cáo là vị thành niên còn hạn chế về nhận thức, hơn nữa bị cáo có hoàn cảnh sống khó khăn do bố mẹ mất sớm, bị cáo ở với ông bà nội nên phần nào thiếu sự quan tâm, giám sát của gia đình. Bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các quy định tại Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm mức hình phạt đối với bị cáo.

Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù giam với mức phạt nghiêm khắc, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, giúp cho bị cáo có thể từ bỏ được ma túy, từ đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người chưa thành niên, căn cứ khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, mảnh nilon gói ma túy ban đầu, que thử nước tiểu. Xét thấy đây là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Wave ZX, biển kiểm soát 26H2-0677, màu sơn đỏ đen. Xét thấy là tài sản hợp pháp của chị Hà Thị M, chị M không biết việc bị cáo sử dụng tài sản trên vào việc phạm tội nên cần trả lại cho chị Hà Thị M quản lý và sử dụng.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

[8] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy N khai mua của một người đàn ông không quen biết, quá trình trao đổi mua bán không có ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 91; khoản 1 Điều 101; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo Hà Văn N 09 (chín) tháng tù. Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 26/4/2019).

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu, mảnh nilon gói ma túy ban đầu, que thử nước tiểu được niêm phong theo quy định.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hà Thị M 01 xe máy nhãn hiệu Wave ZX, biển kiểm soát 26H2-0677, màu sơn đỏ đen.

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 11/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về