Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 15/4/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXX-ST ngày 29/3/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn Anh Phạm Văn Đ, sinh năm: 1980.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Hồ Đồng, xã Nga Th, huyện Nga S, tỉnh Thanh H.

* Bị đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm: 1984.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Chàng, xã Bảo Đ, huyện Lục N. tỉnh B.

Nơi ở: 4th FL., No.3, Alley 24,Ln.68, Sec.1, Guangfu Rd., Sanchong District, New Taipei City, Taiwan, ROC.

+ Đại diện theo ủy quyền nhận các văn bản tố tụng của chị Dương Thị H: là ông Vũ Văn T; sinh năm: 1997.

Địa ở: Căn hộ 6101 khu B, tòa nhà M3-M4, số 91 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng H, quận Đống Đ, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai đề ngày 05/3/2021, nguyên đơn là anh Phạm Văn Đ trình bày:

Anh và chị Dương Thị H có đăng ký kết hôn ngày 17/10/2006 tại Ủy ban nhân dân xã Bảo Đ, huyện Lục N, tỉnh B trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian, sau đó cuộc sống vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Nguyên nhân chủ yếu là do khác biệt về tính cách không thể hòa hợp, không có tiếng nói chung. Đặc biệt kể từ khi chị H sinh sống và làm việc ở Đài Loan, không có điều kiện để vợ chồng quan tâm, chia sẻ chuyện gia đình. Trong thời gian sống xa nhau, mâu thuẫn vợ chồng xảy ra thường xuyên càng khiến tình trạng hôn nhân của vợ chồng trầm trọng hơn, ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc của cả hai bên và các con. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn nhưng nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên vẫn không thể có tiếng nói chung. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Toà án nhân dân tỉnh B giải quyết cho anh được ly hôn với chị Dương Thị H.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Phạm Dương Gia Lsinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Ph sinh ngày 13/9/2013. Ly hôn anh đề nghị được dưỡng hai con chung và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ: Anh không đề nghị Toà án giải quyết.

Do điều kiện anh ở xa nên không thể về tham gia phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, trong các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh và chị H được nên anh đề nghị được vắng mặt trong phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, trong các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh và chị H. Anh giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại bản tự khai.

Bị đơn chị Dương Thị H trình bày:

Chị và anh Phạm Văn Đ có đăng ký kết hôn ngày 17/10/2006 tại Ủy ban nhân dân xã Bảo Đ, huyện Lục N, tỉnh B trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian, sau đó cuộc sống vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Nguyên nhân chủ yếu là do khác biệt về tính cách không thể hòa hợp, không có tiếng nói chung. Đặc biệt kể từ khi chị sinh sống và làm việc ở Đài Loan, không có điều kiện để vợ chồng quan tâm, chia sẻ chuyện gia đình. Trong thời gian sống xa nhau, mâu thuẫn vợ chồng xảy ra thường xuyên càng khiến tình trạng hôn nhân của vợ chồng trầm trọng hơn, ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc của cả hai bên và các con. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn nhưng nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên vẫn không thể có tiếng nói chung. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Đ có đơn đề nghị Toà án nhân dân tỉnh B giải quyết cho anh được ly hôn chị thì chị đồng ý ly hôn với anh Phạm Văn Đ.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Phạm Dương Gia Linh, sinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Phú, sinh ngày 13/9/2013. Ly hôn chị đồng ý giao hai con chung cho anh Đ nuôi dưỡng, chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ: Chị không đề nghị Toà án giải quyết.

Ngoài ra chị H còn trình bày: Hiện nay chị đang lao động tại Đài Loan không thể về Việt Nam giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Đ được nên chị đề nghị xin được vắng mặt tại các buổi tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử của Tòa án; chị đã làm giấy ủy quyền cho anh Vũ Văn T sinh năm 1997; địa chỉ tại căn hộ 6101 khu B, tòa nhà M3-M4, số 91 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng H, quận Đống Đ, thành phố H nhận các văn bản tố tụng, trích lục án của vụ án theo nội dung giấy ủy quyền của chị.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Đ, bị đơn chị H đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 238 bộ luật tố tụng dân sự công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của anh Đ; bản tự khai của chị H, tóm tắt nội dung vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

-Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng điều 51, 53, 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 điều 123 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 điều 35; điểm c khoản 1 điều 37; khoản 4 điều 147; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; 238; điều 271; điều 273; khoản 2 điều 479 BLTTDS; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn Đ. Xử cho anh Phạm Văn Đ được ly hôn chị Dương Thị H.

Về con chung: Giao con chung là cháu Phạm Dương Gia Linh, sinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Phú, sinh ngày 13/9/2013 cho anh Phạm Văn Đ nuôi dưỡng.

Anh Phạm Văn Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Văn Đ và chị Dương Thị H đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Đ, chị H.

[2].Về thẩm quyền: Anh Phạm Văn Đ là công dân có địa chỉ cư trú tại Thôn Hồ Đồng, xã Nga Th, huyện Nga S, tỉnh Thanh H, Việt Nam. Hiện anh Đ có đơn khởi kiện xin ly hôn chị Dương Thị H là bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Chàng, xã Bảo Đ, huyện Lục N, tỉnh B, nhưng hiện đang và làm việc tại Đài Loan có địa chỉ 4th FL., No.3, Alley 24,Ln.68, Sec.1, Guangfu Rd., Sanchong District, New Taipei City, Taiwan, ROC. Như vậy đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Anh Phạm Văn Đ và chị Dương Thị H kết hôn ngày 17/10/2006, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bảo Đ, huyện Lục N, tỉnh B. Đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng chỉ hạnh phúc được một thời gian, sau đó cuộc sống vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Nguyên nhân chủ yếu là do khác biệt về tính cách không thể hòa hợp, không có tiếng nói chung. Đặc biệt kể từ khi chị H sinh sống và làm việc ở Đài Loan, không có điều kiện để vợ chồng quan tâm, chia sẻ chuyện gia đình. Trong thời gian sống xa nhau, mâu thuẫn vợ chồng xảy ra thường xuyên càng khiến tình trạng hôn nhân của vợ chồng trầm trọng hơn, ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc của cả hai bên và các con. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn nhưng nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên vẫn không thể có tiếng nói chung. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho anh Đ được ly hôn với chị H.

[4]. Về con chung: Anh Đ và chị H có 02 con chung là cháu Phạm Dương Gia Linh, sinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Phsinh ngày 13/9/2013. Ly hôn anh Đ đề nghị Toà án giao hai con chung cho anh nuôi dưỡng, và anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung cho anh. Cháu Phạm Dương Gia Lvà cháu Phạm Long Phđều có nguyện vọng được ở với bố. Chị H cũng nhất trí với ý kiến của anh Đ. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình giao cho anh Đ trực tiếp nuôi con chung là cháu Phạm Dương Gia Linh, sinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Phú, sinh ngày 13/9/2013. Chị H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này.

[5]. Về tài sản chung, công nợ: Anh Đ và chị H không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh Phạm Văn Đ phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật tố tụng dân sự; và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Xác nhận anh Đ đã nộp đủ.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban thương vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Phạm Văn Đ được ly hôn chị Dương Thị H.

2. Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu Phạm Dương Gia Linh, sinh ngày 08/10/2007 và cháu Phạm Long Phú, sinh ngày 13/9/2013 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị H thực hiện quyền này 3. Về án phí: Anh Phạm Văn Đ phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2018/0000902 ngày 15/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Xác nhận anh Đ đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Dương Thị H hiện đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Anh Phạm Văn Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về