Bản án 43/2019/HSST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/4/2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 42/2019/HSST ngày 29/3/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 08/4/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 12/8/1999 tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; nơi thường trú và chỗ ở tại khu An Hải, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: tự do; bố là ông Lê Văn C (đã chết) và mẹ là bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1968), trú tại khu An Hải, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; Gia đình có 02 chị em, bí cáo là con thứ hai; Vợ con: chưa có; tiền án: ngày 30/11/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/01/2019, hiện tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa;

- Người làm chứng: anh Nguyễn Phi L, sinh ngày 05/3/2002, trú tại tổ 2, khu Phong Thái, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt và có đơn xin vắng mặt;

- Những người chứng kiến:

+ Ông Phạm Hữu N, sinh ngày 07/7/1957, trú tại tổ 2, khu Cầu Sến, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;

+ Ông Phạm Văn D, sinh ngày 14/9/1958, trú tại tổ 2, khu Cầu Sến, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 15 phút ngày 11/01/2019, tại khu vực tổ 6, khu Tân Lập, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn T bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 0,438 gam (Không phẩy bốn trăm ba mươi tám) ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Ti phiên tòa bị cáo khai: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 11/01/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 14U1-140.51 chở L đến quán nước chè gần trường bổ túc ở phường Quang Trung chơi thì có 01 người bạn của L đến và nói chuyện với L. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì T (bạn bị cáo) gọi điện thoại nhờ bị cáo mua hộ ma túy “đá”, bị cáo đồng ý. Bị cáo gọi điện cho Kiên (bị cáo không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) hỏi mua ma túy “đá”, Kiên đồng ý và hẹn ở khu vực chân cầu vượt phường Quang Trung. Khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, bị cáo tiếp tục điều khiển xe mô tô chở L đến khu vực chân cầu vượt phường Quang Trung. Khi đến gần chân cầu vượt, bị cáo bảo L xuống xe chờ ở đây để bị cáo một mình đến nơi để gặp Kiên. Kiên nhận 300.000đ từ bị cáo rồi đưa cho bị cáo 01 túi nilon có đựng ma túy “đá”. Thấy ma túy ít, bị cáo mua thêm 200.000đ, Kiên đồng ý rồi đưa thêm 01 túi nilon có ma túy cho bị cáo. Bị cáo nhận chiếc túi đựng ma túy này rồi tháo chiếc ốp điện thoại Iphone của mình cho vào trong chiếc ốp như cũ, còn túi ma túy giá 300.000đ mua hộ Th, bị cáo để ở lòng bàn tay trái. Bị cáo quay lại đón L rồi bảo L điều khiển xe mô tô chở bị cáo. Khi đến khu vực đoạn đường liên khu thuộc tổ 6, khu Tân Lập, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí thì bị lực lượng công an thành phố Uông Bí yêu cầu dừng xe kiểm tra. Do lo sợ, bị cáo đã thả túi ma túy ở tay trái xuống đất, lực lượng công an đã thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan. Ngoài ra, công an còn kiểm tra và thu giữ ma túy cần sa của L. Bị cáo không biết và không tham gia gì vào việc cất giấu ma túy cần sa của L, L cũng không biết việc bị cáo cất giấu 2 túi ma túy “đá”.

Ti phiên tòa bị cáo thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí là đúng người đúng tội, không oan sai.

Ngoài ra, bị cáo còn khai quá trình điều tra đã bị thu giữ 02 túi nilon chứa ma túy, 01 túi ở trong ốp điện thoại Iphone của bị cáo là để sử dụng cho bản thân, còn 01 gói bị cáo giữ ở lòng bàn tay trái là mua hộ cho Th với số tiền 300.000 đồng để sử dụng, tuy nhiên bị cáo không biết rõ lai lịch địa chỉ người này.

Bị cáo khai điện thoại Iphone màu trắng vàng bị cáo thu giữ có ốp lưng màu đen trắng in chữ Adidas gắn sim số 0979.334.951 là điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy với đối tượng tên Kiên, tuy nhiên bị cáo có thói quen liên lạc xong là xóa hết lịch sử cuộc gọi, tin nhắn nên khi cơ quan điều tra lập biên bản thì không có thông tin cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, cuộc gọi nhỡ hay tin nhắn. Còn số tiền 1.000.000 đồng là tài sản riêng do bị cáo tự lao động mà có, không liên quan đến việc phạm tội.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14U1-140.51 là xe bị cáo mượn của người quen, bị cáo đã được cơ quan chức năng thông báo là xe chưa xác định được số khung, số máy nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, vì vậy bị cáo không có ý kiến gì.

Ti phiên tòa bị cáo nhận thức rõ được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bị cáo cảm thấy rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ngưi làm chứng là anh Nguyễn Phi L vắng mặt nhưng trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện: Tối ngày 10/01/2019 anh đến nhà bị cáo T chơi và ngủ qua đêm. Sáng ngày 11/01/2019, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha biển kiểm soát 14U1-140.51 chở L đến quán nước chè gần trường bổ túc, phường Quang Trung để uống nước. Đến trưa cùng ngày thì Thắng (anh không biết rõ địa chỉ cụ thể) đến ngồi cùng, Thắng đưa cho anh 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (4x6)cm, bên trong có chứa thực vật khô (về sau anh được biết là ma túy cần sa) và bảo anh cầm về hút. Đến khoảng đầu giờ chiều cùng ngày, bị cáo chở anh đến khu vực có nhiều quán hát ở phường Yên Thanh rồi bảo anh chờ ở đây, sau đó bị cáo đi đâu đó một lúc, một lúc sau bị cáo quay lại bảo anh chở bị cáo đi vào ngã tư Năm Mẫu chơi, khi đi đến khu vực tổ 6, khu Tân Lập, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí thì bị cơ quan chức năng kiểm tra, trong lúc đó anh nhìn thấy bị cáo thả từ bàn tay trái xuống mặt đất một túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Sau đó cơ quan chức năng phát hiện trong khe hở giữa điện thoại Iphone của bị cáo và chiếc ốp lưng điện thoại có một túi nilon khác cũng chứa tinh thể màu trắng, bị cáo khai đều là ma túy đá. Ngoài ra công an thu giữ trong người anh ma túy cần sa. Anh không biết gì về việc bị cáo tàng trữ ma túy đá và cũng không nói gì với bị cáo về việc mình cầm theo ma túy cần sa trong người.

Ngưi chứng kiến là ông Phạm Hữu Ngoạn vắng mặt nhưng quá trình điều tra có lời khai thể hiện: Chiều ngày 11/01/2019 khi ông đang về nhà thì thấy lực lượng chức năng đang kiểm tra hành chính hai thanh niên (sau này được biết là bị cáo và anh Nguyễn Phi L), quá trình kiểm tra thu giữ cạnh chỗ chân bị cáo có một túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng và bên trong khe hở giữa điện thoại Iphone và ốp lưng điện thoại của bị cáo một túi nilon khác cũng chứa chất tinh thể màu trắng, sau đó lực lượng chức năng niêm phong 02 túi nilon này vào hai phong bì riêng biệt và ông được ký tên lên mép phong bì là người chứng kiến.

Ngưi chứng kiến là ông Phạm Văn Doan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra có lời khai phù hợp với tài liệu chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập được.

Ti bản kết luận giám định số 199 ngày 15/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon ký hiệu M1 (ghi thu của bị cáo T) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,228 gam, trong 01 túi nilon ký hiệu M2 (ghi thu của bị cáo T) là ma túy Methamphetamine, khối lượng 0,21 gam. Chất thực vật khô ký hiệu M3 (ghi thu của Nguyễn Phi L) là ma túy cần sa, khối lượng 2,176 gam.

Ti cáo trạng số 53 ngày 29/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 11/01/2019. Tổng hợp hình phạt của bản án số 162 ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí đã xử phạt bị cáo T 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 27 đến 33 tháng tù, được trừ đi những ngày tạm giữ của bản án trước từ ngày 06/9/2018 đến ngày 15/9/2018.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa ma túy hoàn lại sau giám định số 199/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone màu trắng vàng; Tịch thu tiêu hủy 01 ốp lưng điện thoại màu đen trắng có in chữ Adidas và 01 sim điện thoại số 0979.334.951; Trả lại bị cáo 1.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay về cơ bản giống với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập được, vì vậy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 11/01/2019, tại khu vực tổ 6, khu Tân Lập, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn T bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 0,438 gam (Không phẩy bốn trăm ba mươi tám) ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Chất ma túy là chất kích thích gây nghiện nguy hiểm cho xã hội nên việc quản lý, sử dụng chất ma túy phải tuân theo các quy định của pháp luật, trong vụ án này bị cáo là người thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức, biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội, vì vậy cần phải lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục đối với bị cáo nói riêng và đảm bảo tính phòng ngừa tệ nạn ma túy trong xã hội nói chung.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 30/11/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, vì vậy đối với lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tổng hợp hình phạt: Bị cáo hiện đang trong thời gian thử thách mà phạm tội mới nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt đối với tội mới, nhưng được trừ đi những ngày tạm giữ theo bản án trước.

Sau khi xem xét hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo từng vi phạm pháp luật hình sự và bị tòa án xử phạt, đang trong thời gian thử thách nhưng không biết lấy đấy làm bài học để sửa đổi, vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tập trung cải tạo tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra thu giữ của bị cáo 02 túi nilon chứa ma túy, 01 điện thoại Iphone màu trắng vàng có ốp lưng màu đen trắng in chữ Adidas gắn sim 0979.334.951 và số tiền 1.000.000 đồng. Ngoài ra thu giữ của Nguyễn Phi L 01 điện thoại hiệu Itel màu đỏ đen không gắn sim và số tiền 250.000 đồng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14U1-140.51;

Xét thấy: Những tài sản thu giữ của anh Nguyễn Phi L cơ quan điều tra đã trả cho anh L nên không đề cập; chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14U1-140.51 chưa xác định được số khung, số máy nên tách ra, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đi với 0,438 gam ma túy của bị cáo T, sau khi gửi đi giám định đã được hoàn lại trong phong bì niêm phong số 199/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh, xét thấy đây là vật cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy, đối với điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua ma túy, vì vậy cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Đi với chiếc ốp lưng điện thoại và sim số 0979.334.951 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 1.000.000 đồng là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Đối với người đàn ông tên Kiên bán ma túy cho bị cáo, hiện không rõ lai lịch địa chỉ nên không có căn cứ xử lý. Đối với đối tượng tên Thu bị cáo khai là người nhờ bị cáo mua ma túy hộ, cơ quan điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[6] Đối với anh Nguyễn Phi L có hành vi tàng trữ trái phép 2,176 gam cần sa nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, công an đã ra quyết định xử phạt hành chính, L cũng không biết việc bị cáo T tàng trữ ma túy, vì vậy không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

[8] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 162/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị bắt tạm giữ 11/01/2019, được trừ đi thời gian tạm giữ theo bản án 162/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh là từ ngày 06/9/2018 đến ngày 15/9/2018.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 199/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 01 sim số 0979.334.951, 01 ốp lưng điện thoại màu đen – trắng, mặt sau có chữ Adidas. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng. Trả lại bị cáo T 01 triệu đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/4/2019 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí và Cơ quan điều tra công an thành phố Uông Bí) Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về