Bản án 43/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2019/HSST, ngày 22 tháng 8 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn N; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1972 tại huyện T, tỉnh Sơn La; Cư trú tại: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Thái; con ông: Quàng Văn C (đã chết) và bà Lò Thị P (đã chết); Bị cáo có vợ: Lù Thị H, sinh năm 1973 và 04 người con, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1997; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 05/6/2019 cho đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Chị Quàng Thị H1, sinh năm 1997.

Cư trú tại: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Quàng Văn N được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ ngày 05/6/2019, tại nhà ở của mình thuộc Bản H, xã Ẳ, huyện M, Quàng Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,34 gam Heroine và 0,48 gam Methamphetamine mục đích sử dụng.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 14 giờ ngày 04/6/2019 N đi bộ một mình từ nhà ở của mình thuộc Bản H, xã Ẳ, huyện M ra đường QL 279 để tìm mua ma túy về sử dụng, khi đến đầu đường N gặp và hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu một gói Heroine và 04 viên Methamphetamine với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy N đi về nhà, người đàn ông dân tộc Mông đi đâu thì N không biết, về đến nhà N lấy ra một ít Heroine sử dụng bằng hình thức đốt hít. Đến khoảng 12 giờ ngày 05/6/2019 khi N đang ăn cơm cùng con gái thì Tổ công tác Công an huyện Mường Ảng cùng Công an xã Ẳ lên nhà kiểm tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại túi quần bên phải N đang mặc 01 gói Heroine có khối lượng là 1,34 gam; 04 viên Methamphetamine có khối lượng là 0,48 gam và 450.000đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại biên bản niêm phong vật chứng hồi 13 giờ 15 phút và 14 giờ 25 phút ngày 05/6/2019 thì vật chứng thu giữ của Quàng Văn N là 01 gói túi nilon màu đen bên trong có chứa 01 gói chất bột mầu trắng được gói trong mảnh nilon màu trắng nghi là Heroine và 01 gói túi nilon màu đen bên trong có 04 viên nén màu hồng có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine (Hồng phiến). Tiền 450.000đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng hồi 17 giờ 00 ngày 05/6/2019 thì 01 gói túi nilon màu đen bên trong có chứa 01 gói chất bột mầu trắng được gói trong mảnh nilon màu trắng nghi là Heroine có khối lượng là: 1,34 gam. 01 gói túi nilon màu đen bên trong có 04 viên nén màu hồng có ký hiệu WY nghi là ma túy tổng hợp (Hồng phiến) có khối lượng là: 0,48 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 587/GĐ-PC 09, ngày 14/6/2019 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Quàng Văn N gồm:

- 1,34 gam chất bột màu trắng là ma túy: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018;

- 0,48 gam viên nén màu hồng là ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 323, Mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số: 40/CT-VKSMA, ngày 21/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Quàng Văn N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Quàng Văn N từ 22 tháng đến 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 1,30 gam Heroine và 0,39 gam Methamphetamine, là vật chứng còn lại của vụ án. Trả lại cho bị cáo 450.000đồng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo sống ở xã có điều kiện đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo Quàng Văn N.

Lời nói sau cùng, Quàng Văn N nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn N công nhận: Hồi 12 giờ ngày 05/6/2019, tại nhà ở của mình thuộc Bản H, xã Ẳ, huyện M, Quàng Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,34 gam Heroine và 0,48 gam Methamphetamine mục đích sử dụng.

Trong quá trình điều tra bị cáo khai mua 01 gói nhỏ Heroine và 04 viên Hồng phiến với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản niêm phong tài liệu đồ vật và biên bản xác định khối lượng ngày 05/6/2019 và kết luận giám định số 587/GĐ-PC09, ngày 14/6/2019 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 1,34 gam chất bột màu trắng là ma túy: Loại Heroine; 0,48 gam viên nén màu hồng là ma túy: Loại Methamphetamine, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 05/6/2019 đối với Quàng Văn N.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Quàng Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Khối lượng ma túy thu giữ của Quàng Văn N là 1,34 gam Heroine và 0,48 gam Methamphetamine. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 02/02/2019 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng hai chất ma túy được cộng vào để làm căn cứ truy tố, xét xử đối với bị cáo là 1,34 gam + 0,48 gam = 1,82 gam. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện T, tỉnh Sơn La được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 5/9 thì ở nhà lao động sản xuất. Năm 1990 kết hôn với chị Lù Thị H, sinh năm 1973 chuyển lên tỉnh Điện Biên sống cùng vợ và có với nhau 04 người con. Bị cáo là một người chồng, người cha trụ cột trong gia đình nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, bị cáo N nhân thân không tốt. Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức án thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo và cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Theo khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về nguồn gốc số Heroine, Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 04/6/2019. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không xem xét.

[6]. Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 1,30 gam Heroine và 0,39 gam Methamphetamine, là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định, cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 450.000đ không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[7]. Về án phí: Bị cáo Quàng Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Về đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát xét thấy phù hợp nên hội đồng xét xử xem xét.

[9]. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn N phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Quàng Văn N 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05 tháng 6 năm 2019.

2. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 1,30gam Heroine và 0,39 gam Methamphetamine, là vật chứng còn lại của vụ án. Trả lại cho bị cáo 450.000đồng.

(Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2019).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn N.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về