Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 566/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2018 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thanh N, sinh năm 1989; cư trú tại: Ấp HD, xã NH, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Hoàng V, sinh năm 1989; cư trú tại: Ấp TĐ, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Chị Nguyễn Thanh N trình bày:

Tại đơn khởi kiện chị Ng yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thanh N và anh Trần Hoàng V chung sống với nhau vào năm 2007, không có đăng ký kết hôn, việc anh chị chung sống là tự nguyện. Trong quá trình chung sống giữa anh chị phát sinh mâu thuãn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên đã hòa giải hàn gắn nhiều lần và chị đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án vào tháng 8 năm 2018 nhưng sau đó rút đơn nhằm để cho hai bên có cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị nhận thấy không thể hàn gắn được vì anh chị không còn sự quan t âm, chăm sóc lẫn nhau. Chị N yêu cầu ly hôn với anh V.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên Trần Nguyễn Thanh Đ, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2007 và Trần Nguyễn Duy P, sinh ngày 06 tháng 01 năm 2014. Khi ly hôn chị N yêu cầu được nuôi cháu P, giao cháu Đ cho anh V nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ: Không có.

Tại phiên hòa giải, chị yêu cầu được nuôi hai cháu và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 695.000 đồng, thời điểm cấp dưỡng từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, cấp dưỡng hàng tháng, đối với cháu Đ cấp dưỡng đến khi đủ 20 tuổi, đối với cháu P cấp dưỡng đến khi đủ 18 tuổi.

* Anh Trần Hoàng V trình bày:

Về hôn nhân: Anh V và chị N chung sống với nhau vào năm 2007, không có đăng ký kết hôn, việc anh chị chung sống là tự nguyện. Nguyên nhân mâu thuẫn: Do anh chị bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải hàn gắn nhưng không thành. Anh xác định vẫn còn thương chị N nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị N.

Về con chung: Anh thống nhất lời trình bày của chị N, đồng ý giao hai cháu cho chị N nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi hai cháu theo yêu cầu của chị N.

Về tài sản chung và nợ: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi trình bày quan điểm: Về hôn nhân: Đề nghị không công nhận chị N và anh V là vợ chồng. Về con chung: Giao cháu Đ và cháu P cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh V. Về tài sản chung và nợ: Các đương sự xác định không có nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Chị N và anh V chung sống với nhau vào năm 2007 trên tinh thần tự nguyện, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng...”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị N và anh V.

[2] Về vấn đề nuôi con chung: Tại đơn khởi kiện, chị N yêu cầu được nuôi cháu P, giao cháu Đ cho anh V nuôi dưỡng. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa, chị N yêu cầu được nuôi cháu Đ, cháu P và anh V đồng ý giao hai cháu cho chị N nuôi dưỡng. Xét thấy, việc chị N và anh V thống nhất giao cháu Đ và cháu P cho chị N nuôi dưỡng là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Đ và cháu P cho chị N nuôi dưỡng là phù hợp.

[3] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa, Anh chị thống nhất anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi cháu 695.000 đồng, thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, cấp dưỡng hàng tháng, đối với cháu Đ cấp dưỡng cho đến khi đủ 20 tuổi, đối với cháu P cấp dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Xét thấy, việc anh V đồng ý cấp dưỡng nuôi hai con theo yêu cầu của chị N là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N và anh V xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xet, giải quyết là phù hợp.

[5] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị N và anh V phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 và khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thanh N và anh Trần Hoàng V là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Nguyễn Thanh Đ, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2007 và cháu Trần Nguyễn Duy P, sinh ngày 06 tháng 01 năm 2014 cho chị Nguyễn Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Trần Hoàng V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Trần Hoàng V về việc cấp dưỡng nuôi cháu Trần Nguyễn Thanh Đ và cháu Trần Nguyễn Duy P mỗi cháu 695.000 đồng/tháng. Thời điểm cấp dưỡng từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đối với cháu Đ cấp dưỡng đến khi đủ 20 tuổi, đối với cháu P cấp dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.

Kể từ ngày chị Nguyễn Thanh N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Trần Hoàng V chậm thi hành khoản tiền cấp dưỡng nêu trên, thì hàng tháng anh V còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm thi hành theo mức lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành.

3. Về án phí:

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thanh N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0008874 ngày 14 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị N đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án phí cấp dưỡng: Anh Trần Hoàng V phải chịu 150.000 đồng (chưa nộp). Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Chị Nguyễn Thanh N và anh Trần Hoàng V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về