Bản án 43/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở nhà văn hóa xã Y, huyện Hàm Yên, Toà án nhân dân huyện Hàm Yên xét xử lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số38/2018/TLST-HS, ngày 22 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

ĐỖ HƯƠNG Q, sinh ngày 1995, tại tỉnh Tuyên Quang;

- Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn 6 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; - Trình độ học vấn: 11/12;

- Họ tên cha: Đỗ Văn D, sinh năm 1968;

- Họ tên mẹ: Đới Thị H, sinh năm 1973;

- Anh chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ hai;

- Chồng: Vũ Hoàng H, sinh năm 1988. (Hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Cây Vải, tỉnh Quảng Ninh);

- Con: Có 01 con sinh năm 2015;

- Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2018, hiện đang bị tạm giam tại

Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1978 ;

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

(Bà Huyền vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 01/6/2018, tại trụ sở Công an thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, Tổ công tác về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Hương Q, sinh ngày 19/7/1995, trú tại Thôn 6 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 03 gói nhỏ được gói bằng giấy nilon màu trắng bên trong cả ba gói đều chứa các hạt tinh thể mầu trắng (Q khai là ma túy đá); 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone có vỏ mầu trắng, có số IMEI: 013139009954406, trong máy có 01 sim có số thuê bao là 0968843763, số tiền trong tài khoản là 22.255đ; 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Dream mầu sơn nâu BKS: 22F1-087.87. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Hương Q tại phòng trọ của bà Lê Thị H thuộc tổ dân phố Tân Cương, thị trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang thu giữ: 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá được làm bằng một chai nhựa, trên nắp chai có gắn ống thủy tinh và một ống nhựa mầu đen. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Đỗ Hương Q, kết quả (+) dương tính (Có chất ma tuý trong cơ thể).

Quá trình điều tra xác định: Đỗ Hương Q là người nghiện ma túy đá và thường xuyên mua ma túy đá để sử dụng cho bản thân. Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 01/6/2018, Q điều khiển xe môtô đi từ phòng trọ thuộc tổ dân phố T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang đến bến xe khách thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mua 03 gói ma túy đá của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ với giá 500.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, Q đi về phòng trọ và lấy một ít từ một gói nhỏ ra để sử dụng, số ma túy đá còn lại Q để trong túi quần bên trái mặc trên người. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Q điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Dream mầu sơn nâu BKS: 22F1-087.87 đi chơi tại khu vực tổ dân phố Tân Cương, thị trấn Tân Yên, huyện Hàm Yên thì bị Tổ công tác về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang đang làm nhiệm vụ phát hiện Q có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu Q về Công an thị trấn T, huyện H để làm việc. Tại Công an thị trấn T, huyện H, Tổ công tác về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang đã phát hiện Q tàng trữ trái phép 03 gói ma túy đá trong túi quần bên trái và đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại Kết luận giám định số: 247/GĐKTHS ngày 04/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể mầu trắng trong 03 gói nhỏ thu giữ của Đỗ Hương Q gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, số thứ tự 323 thuộc danh mục IIC, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,524g (Không phẩy năm hai bốn gam).

Trước cơ quan điều tra, Đỗ Hương Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ; Kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKSHY, ngày 20/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Đỗ Hương Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đỗ Hương Q theo tội danh đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Hương Q phạm tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đỗ Hương Q từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/6/2018), không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo Đỗ Hương Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Hương Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 01/6/2018, tại trụ sở Công an thị trấn T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, Tổ công tác về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Hương Q, sinh ngày 19/7/1995, trú tại Thôn 6 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi tàng trữ 0,524g (Không phẩy năm hai bốn gam) ma túy, loại Methamphetamine, số thứ tự 323 thuộc danh mục IIC, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,524g (Không phẩy năm hai bốn gam) với mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ quản lý sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh chống tệ nạn ma tuý, đồng thời còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội, nên cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật, và cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Như vậy, HĐXX chấp nhận xử phạt bị cáo mức án như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đề nghị tại phiên toà là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy; bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, theo lời khai của Đỗ Hương Q khai nhận mua ma túy của một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ tại khu vực bên xe khách T thuộc phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông trên nên không có căn cứ để xử lý trong cùng vụ án.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 03 gói nhỏ ma túy được gói bằng giấy nilon màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone có vỏ mầu trắng của Đỗ Hương Q; 01xe môtô nhãn hiệu Honda Dream mầu sơn nâu BKS: 22F1-087.87. Ngày 09/8/2018, trả lại cho ông Đỗ Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone có vỏ mầu trắng, có số IMEI: 013139009954406, trong máy có 01 sim có số thuê bao là 0968843763 (Ông D là bố của bị cáo Q, do bị cáo Q ủy quyền nhận lại tài sản). Tại phiên tòa bị cáo xác nhận đã nhận đủ tài sản không liên quan đến vụ án và không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án. Đối với số ma túy đã thu giữ 0,524g (Không phẩy năm hai bốn gam) ma túy, loại Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Dream mầu sơn nâu BKS: 22F1-087.87 tạm giữ của bị cáo Q nhưng quá trình điều tra chưa xác định được chính xác chủ sở hữu hợp pháp, xét thấy chiếc xe không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Yên đã tách ra để giải quyết theo quy định là phù hợp với quy định pháp luật.

[6] Đối với bà Lê Thị H là người cho thuê nhà bà H không biết việc Q sử dụng, tàng trữ ma túy nên không đề cập xử lý là đúng quy định. Tại phiên tòa bà Huyền vắng mặt trong đơn xin xử vắng mặt bà không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Hương Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Đỗ Hương Q 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/6/2018).

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,524g (Không phẩy năm hai bốn gam) ma túy, loại Methamphetamine trong phong bì niêm phong có chữ ký giáp lai của Đỗ Hương Q và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá làm bằng chai nhựa. (Tình trạng như Biên bản giao vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Hàm Yên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, lập ngày 21/8/2018 ).

* Về án phí: Bị cáo Đỗ Hương Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

"Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì ng ười được thi hành án dân sự, ng ười phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về