Bản án 43/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại nhà văn hóa phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp, Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Công Đ – Sinh ngày 22 tháng 5 năm 1971 tại huyện Y, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Công Đ và bà Vũ Thị Th; bị cáo có vợ và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không;

+ Nhân thân:

- Ngày 15/4/1995 Công an huyện G, tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản;

- Ngày 03/02/1996 Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Ninh Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

- Ngày 19/12/1997 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” 06 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 04 năm 06 tháng tù giam về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung là 11 năm tù.

- Ngày 29/11/2007 Công an huyện K, tỉnh Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính 200.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 16/10/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã T xử phạt 36 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Ngày 02/12/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2018, đến ngày 08/6/2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo Quyết định tạm giam số 35/2018/HSST-QĐTG ngày 17/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Vũ Thị Th – Sinh năm 1949

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình (Có mặt)

- Người làm chứng:

Ông Nguyễn Quốc T - Sinh năm: 1954; (Vắng mặt).

- Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn C - Sinh năm: 1950; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 07/6/2018, tổ công tác Công an thành phố T phối hợp với Công an phường B tiến hành tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên đoạn đường Tr thuộc tổ dân phố 8, phường B, thành phố T phát hiện Vũ Công Đ đang đi bộ trên vỉa hè giáp với tường bao trường mầm non V có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra, quá trình kiểm tra phát hiện và thu giữ trên tay phải của Đ cầm 01 túi ni lon màu trắng, bên trong có đựng chất dạng tinh thể màu trắng. Tại chỗ, Đ khai nhận đó là túi ma túy đá vừa mua được với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản niêm phong, thu giữ theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra còn thu giữ của Vũ Công Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar kèm theo 01 thẻ sim điện thoại Vinaphone và 20.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Sau đó đưa Đ cùng vật chứng về trụ sở Công an phường B, thành phố T tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất tinh thể mầu trắng bên trong túi nilon màu trắng thu giữ được của Vũ Công Đ có khối lượng là 0,39 gam kí hiệu M1 và gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 110/KLGĐ-PC54-MT ngày 08/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể mầu trắng gửi giám định kí hiệu M1 có khối lượng 0,3956(Không phẩy ba nghìn chín trăm năm mươi sáu) gam, là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ

Quá trình điều tra, bị cáo Vũ Công Định đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 43/CT – VKS ngày 13 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Vũ Công Đ ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Công Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Vũ Công Đ từ 24 (Hai mươi bốn) đến 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 07/6/2018.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a và c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên trong có: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Vũ Công Đ; 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (3 x 4) cm.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 110/2018/GĐMT; bên trong gồm 0,3152 (Không phẩy ba nghìn một trăm năm mươi hai) gam chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M1 là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu, theo biên bản cân xác định khối lượng, niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 08/6/2018 giữa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp.

+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Vũ Công Đ.

+ 01 (một) sim Vinaphone, số thuê bao 0942478066.

Trong quá trình điều tra, ông Nguyễn Quốc T trình bày: Khoảng gần 13 giờ ngày 07/6/2018 khi ông đang đứng trước cửa nhà thì nhìn thấy hai người đàn ông đi trên một chiếc xe môtô qua cửa nhà ông hướng Ninh Bình - Thanh Hóa khoảng 20m thì dừng lại ở bên đường. Người đàn ông ngồi phía sau xuống xe và đi bộ trên vỉa hè giáp với tường bao của trường mầm non V, khi người đàn ông này đi khoảng 20m thì tôi thấy lực lượng Công an đến chỗ người đàn ông này, tôi đến lại gần thì thấy trên tay người đàn ông này có một túi nilon màu trắng bên trong có chất tinh thể màu trắng, đồng thời người đàn ông cũng khai nhận họ tên tuổi là Vũ Công Đ và túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng đó là ma túy đá mà Đ vừa mua, Công an đã thu giữ, kiểm tra bên trong túi nilon màu trắng là chất tinh thể màu trắng và niêm phong túi nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy của Vũ Công Đ. Tại cơ quan điều tra, lực lượng công an cùng Kiểm sát viên mở niêm phong cân xác định khối lượng ma túy, kiểm tra dấu vết trên thân thể của Vũ Công Đ, chụp ảnh ghi nhận nội dung làm việc.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và người chứng kiến; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số: 110/GĐMT ngày 08/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào hồi 13 giờ 00 phút ngày 07/6/2018, bị cáo Vũ Công Đ có hành vi cất giữ trái phép 0,3956 gam Methamphetamine để sử dụng đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ...;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương mặt khác bị cáo có bà ngoại là Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Vũ Công Đ có nhân thân rất xấu, bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt hành chính cũng như bị đưa ra xét xử về các hành vi liên quan đến ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục dấn sâu vào con đường phạm tội.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Trong vụ án này bà Vũ Thị Th là người cho bị cáo mượn chiếc điện thoại di động Mobistar, khi bị cáo mượn điện thoại thì bà Th không biết việc bị cáo mượn điện thoại để sử dụng liên lạc mua ma túy nên bà Th không có lỗi. Do vậy có có căn cứ xử lý đối với bà Th.

[8] Đối với người tên Phạm Thanh L mà Vũ Công Đ khai đã điện thoại cho L để mua ma túy từ L. Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành triệu tập L để đấu tranh làm rõ nhưng L không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tách tài liệu ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với người thanh niên trực tiếp mang ma túy đến cho Đ, do Đ không biết họ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên chưa có cơ sở điều tra xác minh. Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tách tài liệu ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên trong có: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Vũ Công Đ; 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (3 x 4) cm; 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 110/2018/GĐMT; bên trong gồm 0,3152 (Không phẩy ba nghìn một trăm năm mươi hai) gam chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M1 là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu, theo biên bản cân xác định khối lượng, niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 08/6/2018 giữa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp; 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Vũ Công Đ; 01 (một) sim Vinaphone, số thuê bao 0942478066 mà Vũ Công Đ sử dụng để liên lạc mua ma túy cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Đối với chiếc điện thoại di động Mobistar màu đen đỏ mà Cơ quan điều tra đã thu giữ của Vũ Công Đ, qua điều tra xác minh đây là tài sản của bà Vũ Thị Th. Do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà The nên không đặt ra xem xét.

- Đối với số tiền 20.000 đồng mà Cơ quan điều tra đã thu giữ của Vũ Công Đ, đây là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo nên không đặt ra xem xét.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định song do gia đình bị cáo là hộ nghèo của địa phương và tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Việc đề nghị của bị cáo là chính đáng do đó cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để miễn án phí cho bị cáo.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 ; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Vũ Công Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Vũ Công Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 07 tháng 6 năm 2018.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên trong có: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ của Vũ Công Đ; 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng kích thước (3 x 4) cm.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 110/2018/GĐMT; bên trong gồm 0,3152 (Không phẩy ba nghìn một trăm năm mươi hai) gam chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M1 là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu, theo biên bản cân xác định khối lượng, niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 08/6/2018 giữa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp.

+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Vũ Công Đ.

+ 01 (một) sim Vinaphone, số thuê bao 0942478066.

Những vật chứng trên Công an thành phố Tam Điệp đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 9 năm 2018 giữa Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp.

3/Về án phí:

Miễn 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Công Đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về