Bản án 43/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2018/HSST NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2018/HSSTngày 02/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:15/2018/QĐXXST-HS ngày 26/02/2018 đối với bị cáo:

Hoàng Văn H, sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Q 2, xã TL, huyện MĐ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn V, sinh năm 1960 và bà: Đinh Thị V, sinh năm 1962; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không;

Tiền án: Ngày 02/12/2014, Tòa án nhân dân huyện MĐ, TP. Hà Nội phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp với hình phạt 9 tháng 11 ngày Cải tạo không giam giữ tại bản án số 09/2014/HSST ngày 18/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện MĐ phạt 12 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” chưa thi hành xong, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 15 tháng 03 ngày tù. Ngày 25/11/2015 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 09/3/2015 đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Nhân thân: Ngày 18/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện MĐ, TP. Hà Nội phạt 12 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” (số tiền đánh bạc của vụ án là 4.114.000 đồng), ngày 25/6/2014 nộp án phí. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH  ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 và Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, H đã được xóa án.

Danh chỉ bản số 52 do Công an huyện CM lập ngày 24/11/2017; Bị bắt ngày 22/11/2017, tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/11/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an TP. Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

-  Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phùng Xuân P, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Thôn AT II, xã HV, huyện CM, TP. Hà Nội (vắng mặt).

-  Người làm chứng:

1. Anh Lê Văn S, sinh năm 1971; Nơi cư trú: Thôn ĐV, xã HV, huyện CM, TP. Hà Nội ( vắng mặt).

2.Anh Phùng Xuân M, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Thôn ĐV, xã HV, huyện CM, TP. Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/11/2017, Hoàng Văn H một mình đi mua được 07 gói ma túy tổng hợp với giá 2.500.000 đồng của 01 người nữ giới không quen biết ở nội thành Hà Nội. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu dưới mặt nạ xe mô tô Yamaha Ecxiter chưa có BKS của H, mục đích bán lại cho các đối tượng và bản thân sử dụng.

Do có quen biết Phùng Xuân P (SN 1970 ở thôn AT II, xã HV, huyện CM), nên khi P hỏi mua ma tuý đá để sử dụng H đồng ý và hẹn gặp nhau ở đường AT, xã HV, huyện CM để giao dịch. Khoảng 16 giờ ngày 18/11/2017, tại hàng cây xà cừ trên đường AT, xã HV, H đã bán cho P 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá với giá 300.000 đồng. P chưa có tiền nên H cho P nợ, đồng thời cho P vay thêm 200.000 đồng để mua thẻ điện thoại.

Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 22/11/2017, H điều khiển xe mô tô Yamaha Ecxiter chưa có BKS đi lên nhà P để đòi nợ tiền bán ma túy và tiền cho P vay ngày 18/11/2017. Khi H đang đứng chờ gần cổng nhà P tại thôn AT II, xã HV thì bị Công an xã HV phối hợp cùng Công an đồn số 15, Công an huyện CM kiểm tra hành chính phát hiện phía dưới ốp mặt nạ đầu xe Yamaha Ecxiter có 07túi nilon, trong đó có 05 túi chứa tinh thể màu trắng, 01 túi có 05 viên nén màu hồng, 01 túi có chứa các cục chất bột màu hồng, 02 điện thoại di động, 1.800.000 đồng. Hoàng Văn H khai nhận đó là ma túy tổng hợp. Công an xã HV đã tiến hành lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Vật chứng thu giữ: 02 túi nilong màu trắng, kích thước mỗi túi (7x5)cm; 03 túi nilong màu trắng, kích thước mỗi túi (3x2)cm bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng  hợp dạng đá; 05 túi nilong này được niêm phong trong phong bì mẫu số 01; 01 túi nilong màu trắng, kích thước (3x3)cm chứa 05 viên nén hình trụ màu hồng nghi là ma túy tổng hợp và 01 túi nilong màu trắng, kích thước (7x5)cm chứa các cục chất bột màu hồng nghi là ma túy tổng hợp; 02 túi nilong này được niêm phong trong phòng bì mẫu số 02;

01 xe máy Yamaha Ecxiter  màu đen, không có biển kiểm soát, đã qua sử dụng;

01 điện thoại Nokia; 01 điện thoại Iphone; 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Tại kết luận giám định số 7493/KLGĐ - PC54 ngày 29/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 05 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng trọng lượng: 5,099 gam; Các cục chất bột màu hồng và 05 viên nén hình trụ màu hồng đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng trọng lượng: 0,587 gam”.

Tại Cáo trạng số 08/CT-VKS  ngày 01/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố Hoàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS 1999).

Tại phiên toà:

- Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CM giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999, xử phạt Hoàng Văn H từ 03 đến 04 năm tù; Đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung từ 5.000.000đ đến 8.000.000đ đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong bên trong là Methamphetamine; 01 xe máy Yamaha Exciter và 01 điện thoại Nokia là phương tiện H sử dụng để bánma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; Đối với chiếc điện thoạiIphone không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho H; Đối với số tiền 1.800.000 đồng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nếu phạt bổ sung thì giữ lại để đảm bảo thi hành án, trường hợp không phạt bổ sung thì trả lại cho H.

Đối với số tiền 300.000 đồng P mua ma túy chưa trả H cần truy thu của P để sung vào ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng: Xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Trong quá trình điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 292, Khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[2]Về nội dung:

[2.1] Tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người liên quan, người làm chứng và các tài liệu khác Cơ quan điều tra đã thu thập, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ ngày 18/11/2017, tại hàng cây xà cừ trên đường AT thuộc xã HV, huyện CM, TP. Hà Nội, Hoàng Văn H đã có hành vi bán trái phép cho Phùng Xuân P một gói ma túy tổng hợp dạng đá với giá 300.000 đồng và thu giữ thêm 5,686 gam Methamphetamine để trong xe mô tô của H nhằm mục đích để bán kiếm lời. Hành vi của Hoàng Văn H cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo Khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Thời điểm bị cáo phạm tội trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực, Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 quy định mức hình phạt không có gì khác so với Điều 194 BLHS1999 nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 194 BLHS 1999 để xét xử bị cáo.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố Hoàng Văn H theo Khoản 1 Điều 194 BLHS1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những qui định nghiêm ngặt của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Bị cáo biết tác hại của ma túy, việc mua bán bị nghiêm cấm song để có tiền phục vụ cho việc nghiện hút của bản thân, bị cáo đã mua ma túy về sử dụng và bán lại kiếm lời.Vì vậy cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo từ bỏ ma túy và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[2.2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo xấu: Ngày 02/12/2014, Tòa án nhân dân huyện MĐ, TP. Hà Nội phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp với hình phạt 9 tháng 11 ngày Cải tạo không giam giữ tại bản án số 09/2014/HSST ngày 18/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện MĐ phạt 12 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” chưa thi hành xong, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 15 tháng 03 ngày tù. Bị cáo phạm tội mới khi chưa được xóa án là tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo Điểm g Khoản 1 Điều 48 BLHS 1999.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; khi bị kiểm tra hành chính ngày 22/11/2017 bị cáo đã tự thú hành vi bán ma túy cho P ngày 18/11/2017 là các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 BLHS1999.

Đối với 5,099 gam Methamphetamine dạng tinh thể màu trắng, 0,587 gam Methamphetamine dạng cục và viên nén màu hồng thu giữ từ xe mô tô của H. Cơ quan điều tra xét thấy số ma túy này mục đích H để bán nên không cần thiết phải xử lý về tội Tàng trữ trái pháp chất ma túy là có căn cứ.

[2.3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người bán ma túy cho H, Cơ quan điều tra không xác định được nên không đề cập xử lý trong vụ án.

Đối với Phùng Xuân P có hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng, Cơ quan điều tra đã thông báo cho chính quyền địa phương lập hồ sơ theo Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

[2.4]Về xử lý vật chứng:

- 02 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng H1 và đối tượng Hoàng Văn H bên trong có chứa Methamphetamine tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động Nokia thu của H liên quan đến việc mua bán matúy tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;

- 01 xe máy Yamaha – Exciter không biển kiểm soát là phương tiện H sử dụng vào việc mua bán ma túy cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;

- 01 điện thoại di động Iphone không có sim, H sử dụng cá nhân không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho H;

- Số tiền 1.800.000 đồng thu giữ của H không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 300.000 đồng Phùng Xuân P mua ma túy còn nợ H là tiền thu lợi bất chính cần truy thu của P để sung vào ngân sách Nhà nước.

[2.5]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý

2.Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điểm o, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: Phạt: Hoàng Văn H 30 (ba mươi ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2017.

3.Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng H1 và đối tượng Hoàng Văn H (bên trong chứa Methamphetamine);

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ; 01 xe máy Yamaha – Ecxiter không biển kiểm soát màu đen, số máy: 528924, số khung: 506502 thu giữ của Hoàng Văn H;

- Trả lại cho H 01 điện thoại di động Iphone màu vàng (không kiểm tra chất lượng bên trong).

- Trả lại Hoàng Văn H số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm ngàn đồng).

- Truy thu của Phùng Xuân P số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước;

(Toàn bộ số vật chứng và số tiền trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện CM  theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/02/2018 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949  của Chi cục thi hành án dân sự huyện CM tại Kho bạc Nhà nước huyện CM ngày 01/02/2018).

4.Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư  ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:43/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về