Bản án 424/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 424/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại Văn phòng khu phố Thống Nhất 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 413/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 447/2019/HSST-QĐ ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Thạch S, sinh năm 1992 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp Tr B, xã T T, huyện Th Tr, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở: Khu phố Nh Đ 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: Phật giáo; con ông Thạch K, sinh năm 1958 và bà Lý Thị H, sinh năm 1964; bị cáo có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án: Ngày 06/6/2018, bị Tòa án nhân dân quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 140/2018/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 05/5/2019; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 09/01/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Th A, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 07 tháng tù về tội Bắt người trái pháp luật và Cưỡng đoạt tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 09/01/2015; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/8/2019 cho đến nay, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến:

1. Bà Văn Văn Ngọc T, sinh năm 1994; vắng mặt.

2. Ông Trương Tuấn V, sinh năm 1995; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/8/2019, Tổ tuần tra Công an phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Đội quản lý hành chính Công an thị xã D A kiểm tra nhà nghỉ S H thuộc khu phố Nh Đ 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khi kiểm tra đến phòng 206 do Thạch S và Văn Văn Ngọc T thuê phát hiện trên giường sát chỗ đầu nằm của S có một họp giấy bên trong có 04 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, S khai nhận là ma túy của S đồng thời Lực lượng Công an còn thu giữ 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa nên tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi quả tang cùng tang vật.

Tại Cơ quan điều tra, Thạch S khai nhận vào tối ngày 22/8/2019 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Sết đến khu vực quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của đối tượng tên S1 (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 2.700.000 đồng (ma túy được đựng trong 03 gói nilon hàn kín). Sau khi bán ma túy cho S thì S1 cho S thêm 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và nói với S đây là phôi không phải là ma túy để trộn vào ma túy thật nhằm mục đích bán kiếm lời thì S đồng ý nhận gói nilon này. Sau đó, Sết mang 04 gói nilon về nhà nghỉ “S H” thuộc khu phố Nh Đ 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để gặp Văn Văn Ngọc Tu nói chuyện. Đến khoảng 12 giờ 50 phút ngày 23/8/2019 thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Vật chứng thu giữ: 04 (bốn) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) cân tiểu ly và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa).

Căn cứ Kết luận giám định số: 656A/MT-PC09 ngày 30 tháng 8 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Thạch S gửi đến giám đinh là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng M1 = 0,2650 gam, M2=0,5411gam, M3 = 2,4383 gam và M4 = 8,2478 gam.

Quá trình điều tra bị cáo có yêu cầu giám định lại khối lượng ma túy nhưng không có cơ sở nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A không chấp nhận giám định lại đồng thời tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 656A/MT-PC09 ngày 30 tháng 8 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với đối tượng tên S1 đã bán ma túy cho Thạch S, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Văn Văn Ngọc T không biết Thạch S tàng trữ trái phép chất ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý.

Cáo trạng số: 436/CT-VKS ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Thạch S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Thạch S từ 06 năm đến 07 năm tù.

* Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) bì thư đã niêm phong số 656A/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,2442 gam (M1), 0,5110 gam (M2), 2,3960 gam (M3), 7,9266 gam (M4), 01 (một) cân tiều ly, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa) là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/8/2019, tại phòng 206 nhà nghỉ “S H” thuộc khu phố Nh Đ 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương do Thạch S thuê để ở. Lực lượng Công an phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương kết hợp Đội quản lý hành chính Công an thị xã D A kiểm tra phát hiện 04 gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, Sết khai nhận là ma túy của Sết đồng thời Lực lượng Công an còn thu giữ 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa nên tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi quả tang cùng tang vật Căn cứ Kết luận giám định số: 656A/MT-PC09 ngày 30 tháng 8 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Thạch S gửi đến giám đinh là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng M1 = 0,2650 gam, M2=0,5411gam, M3 = 2,4383 gam và M4 = 8,2478 gam.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Thạch S tàng trữ ma túy có tổng khối lượng 11,4922 gam, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng số: 436/CT-VKS ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Thạch S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng mà bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích nay là tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích đồng thời bị cáo đã từng xét xử về tội Bắt người trái pháp luật và Cưỡng đoạt tài sản đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ma túy là tiền đề của các tội trộm cắp, cướp giật, giết người và nhiều tội phạm khác đồng thời bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng lớn và là người nghiện ma túy, không có nghề nghề nghiệp ổn định. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong số 656A/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,2442 gam (M1), 0,5110 gam (M2), 2,3960 gam (M3), 7,9266 gam (M4), 01 (một) cân tiểu ly, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa) là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với đối tượng tên S1 đã bán ma túy cho Thạch S, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau và đối với Văn Văn Ngọc T không biết Thạch S tàng trữ trái phép chất ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thạch S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Thạch S 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong số 656A/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,2442 gam (M1), 0,5110 gam (M2), 2,3960 gam (M3), 7,9266 gam (M4), 01 (một) cân tiểu ly, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa, 01 bình nhựa).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/11/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Thạch S phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 424/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:424/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về