Bản án 42/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Chí C, sinh năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Số 764/4, đường P, Ph 13, quận G, Tp. HCM; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Chí H, sinh năm 1970 và bà Đỗ Thị Tuyết M, sinh năm 1972; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2020 đến ngày 17/4/2020, bị cáo được thay thế biện pháp cho bảo lĩnh.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

1. Ông Lương Văn H; (Vắng mặt)

2. Ông Mai Lê T; (Vắng mặt)

3. Ông Nguyễn Hoàng Th; (Vắng mặt)

4. Ông Phạm Ngọc Quang V; (Vắng mặt)

 5. Ông Nguyễn Tấn V; (Vắng mặt)

6. Ông Nguyễn Trọng Văn Hoàng D; (Vắng mặt)

7. Ông Nguyễn Thế T; (Vắng mặt)

 8. Ông Trần Tiến D. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Chí C là đối tượng nghiện ma túy từ đầu năm 2020. Khoảng 23 giờ ngày 22/02/2020, C đến quán bar 85 thuộc quận G, TP.HCM để chơi. Lúc này, do muốn có ma túy để sử dụng nên C đến gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) trong quán để hỏi mua ma túy về sử dụng, người này đồng ý và bán cho C 03 bịch ma túy với giá 5.000.000 đồng. C lấy một ít ma túy trong 01 bịch ra để sử dụng, số còn lại bỏ vào túi xách của C để mang về nhà cất giấu, sử dụng dần. Khoảng 09 giờ ngày 23/02/2020, C mang theo túi xách bên trong chứa ma túy rồi cùng bạn là Mai Lê T, Nguyễn Hoàng Th đến xã A, huyện P, tỉnh B dự đám cưới bạn. Sau đó, C cùng T, Th, Phạm Ngọc Quang V, Nguyễn Tấn V, Nguyễn Trọng Văn Hoàng D (bạn của V), Nguyễn Thế T, Trần Tiến D (là bạn của V, T, Th) rủ nhau đến phòng số 01 quán Karaoke Yumi thuộc khu phố 9, thị trấn P, huyện P, tỉnh BD để hát. Tại đây, C lấy một ít ma túy trong 01 bịch ma túy để lên 01 cái đĩa nhựa màu trắng có sẵn trong phòng, sau đó lấy tờ tiền 10.000 đồng và vỏ đầu lọc thuốc lá cuốn lại thành hình tròn rồi cùng T, Th, V, V, Nguyễn Trọng Văn Hoàng D, Trần Tiến Dg sử dụng hết số ma túy đó bằng hình thức hít, quá trình sử dụng ma túy C không yêu cầu hay đòi hỏi lợi ích gì. Số ma túy còn lại C cất vào trong túi xách rồi tiếp tục cùng mọi người hát. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi cả nhóm đang hát thì lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phát hiện Đỗ Chí C có hành vi tàng trữ trái phép 6,8302 gam ma túy loại Ketamine.

Kết luận giám định số 86/MT-PC09 ngày 02 tháng 3 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng: 6,8302 gam, loại Ketamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng/trọng lượng: 6,6917 gam.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo thu giữ:

- 03 (ba) bịch nilon miệng kéo dính bên trong chứa ma túy được niêm phong trong 01 bì thư có chữ ký của Đỗ Chí C, cán bộ niêm phong Phạm Văn N và hình dấu đỏ của Công an thị trấn Phước Vĩnh, dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

- 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuốn lại bằng vỏ đầu lọc thuốc lá dùng để sử dụng ma túy.

- 01 (một) máy tính xách tay màu đỏ đen; 01 (một) thẻ căn cước công dân số 079099013083 mang tên Đỗ Chí C; 01 (một) bộ loa chưa qua sử dụng;

01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng.

- 01 (một) túi xách bằng da; 01 (một) card nhựa có ghi chữ extra care VietNam; 01 (một) đĩa bằng nhựa cứng màu trắng.

Cáo trạng số 44/CT-VKSPG ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đỗ Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Chí C từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

- 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 86/PC09, có chữ ký của Đỗ Chí C, cán bộ niêm phong Phạm Văn N và hình dấu đỏ của Công an thị trấn Phước Vĩnh, dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, trọng lượng: 6,6917 gam. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuốn thành hình trụ tròn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

- 01 (một) máy tính xách tay màu đỏ đen; 01 (một) thẻ căn cước công dân số 079099013083 mang tên Đỗ Chí C cấp ngày 13/01/2020; 01 (một) cặp loa hiệu Pioneer; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng imei: 355354080085006. Đây là tài sản hợp pháp của Đỗ Chí C không liên quan việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Đỗ Chí C;

- 01 (một) túi xách bằng da màu xám có 02 sọc trắng; 01 (một) card nhựa có ghi chữ extra care VIETNAM; 01 (một) cái dĩa bằng nhựa màu trắng. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Bị cáo Đỗ Chí C cho rằng Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Chí C khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 22/02/2020, tại quán bar 85 thuộc quận G, Tp.HCM, bị cáo gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy về sử dụng, người này đồng ý và bán cho bị cáo 03 bịch ma túy với giá 5.000.000 đồng. Khoảng 14 giờ ngày 23/02/2020, bị cáo cùng Mai Lê T, Nguyễn Hoàng Th, Phạm Ngọc Quang V, Nguyễn Tấn V, Nguyễn Trọng Văn Hoàng D, Nguyễn Thế T, Trần Tiến D đến phòng số 01 quán Karaoke Yumi thuộc khu phố 9, thị trấn P, huyện P, tỉnh B để hát. Tại đây, bị cáo lấy 01 ít ma túy để lên đĩa nhựa để bị cáo sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang hát thì lực lượng Công an kiểm tra hành chính, phát hiện bị cáo Đỗ Chí C có hành vi tàng trữ trái phép 6,8302 gam ma túy, loại Ketamine. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, lời khai của những người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[3] Theo Kết luận giám định số 86/MT-PC09 ngày 02 tháng 3 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng: 6,8302 gam, loại Ketamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng/trọng lượng: 6,6917 gam. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Về nhận thức, bị cáo biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, bị cáo là người đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Như vậy, Cáo trạng số 44/CT-VKSPG ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đỗ Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà nhà nước ta đang tiến hành và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Chí C không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Đỗ Chí C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước mà an tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Xét mức hình phạt như đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Đỗ Chí C là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về việc xử lý vật chứng của vụ án:

- 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 86/PC09, có chữ ký của Đỗ Chí C, cán bộ niêm phong Phạm Văn N và hình dấu đỏ của Công an thị trấn Phước Vĩnh, dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, trọng lượng: 6,6917 gam. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuốn thành hình trụ tròn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

- 01 (một) máy tính xách tay màu đỏ đen (hiệu DELL, mã INSPIRONN3010, không pin, không kiểm tra bên trong máy); 01 (một) thẻ căn cước công dân số 079099013083 mang tên Đỗ Chí C cấp ngày 13/01/2020; 01 (một) cặp loa hiệu Pioneer (model: S-DJ50X, không kiểm tra bên trong); 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng imei: 355354080085006 (không kiểm tra bên trong máy. Đây là tài sản hợp pháp của Đỗ Chí C không liên quan việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Đỗ Chí C;

- 01 (một) túi xách bằng da màu xám có 02 sọc trắng; 01 (một) card nhựa có ghi chữ extra care VIETNAM; 01 (một) cái dĩa bằng nhựa màu trắng. Đây là công cụ dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[9] Đối với Mai Lê T, Nguyễn Hoàng Th, Phạm Ngọc Quang V, Nguyễn Tấn V, Nguyễn Trọng Văn Hoàng D, Trần Tiến D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Chí C. Ngày 05/4/2020, Công an huyện Phú Giáo đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T, Th, V, V, Nguyễn Trọng Văn Hoàng D, Trần Tiến D về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 249; Điều 47, Điều 48, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đỗ Chí C 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2020. Được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/02/2020 đến ngày 17/4/2020.

Căn cứ khoản 2 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử ra Quyết định bắt, tạm giam bị cáo ngay tại phiên toà để chấp hành hình phạt khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Về vật chứng của vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 86/PC09, có chữ ký của Đỗ Chí C, cán bộ niêm phong Phạm Văn N và hình dấu đỏ của Công an thị trấn Phước Vĩnh, dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, trọng lượng: 6,6917 gam; 01 (một) túi xách bằng da màu xám có 02 sọc trắng; 01 (một) card nhựa có ghi chữ extra care VIETNAM; 01 (một) cái dĩa bằng nhựa màu trắng.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuốn thành hình trụ tròn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Chí C: 01 (một) máy tính xách tay màu đỏ đen (hiệu DELL, mã INSPIRON N3010, không pin, không kiểm tra bên trong máy);

01 (một) thẻ căn cước công dân số 079099013083 mang tên Đỗ Chí C cấp ngày 13/01/2020; 01 (một) cặp loa hiệu Pioneer (model: S-DJ50X, không kiểm tra bên trong máy); 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng imei: 355354080085006 (không kiểm tra bên trong máy).

(Thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương)

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc: Bị cáo Đỗ Chí C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về