Bản án 42/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Thành D, sinh ngày 15/9/1973 tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: Thôn D, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn L, sinh năm 1944 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1944; vợ: Đinh Thị D, sinh năm 1974; có hai con: Con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 04/QĐ-TA ngày 06/9/2016 của Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng, tại Trung tâm cai nghiện ma túy và chăm sóc đối tượng xã hội tỉnh Thái Bình, ngày 09/9/2018 chấp hành xong; nhân thân: Quyết định số 179/QĐXPHC ngày 05/7/2010 của Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi đánh nhau, ngày 30/7/2010 chấp hành xong. Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 20/4/2016 của Ủy ban nhân dân xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng, đến ngày 20/7/2016 chấp hành xong; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/3/2020 đến ngày 05/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ.

(Bị cáo có mặt tại phiên toà)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Đinh Thị D, sinh năm 1974 Địa chỉ: Thôn D, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến:

+ Ông Mai Quang Th, sinh năm 1964 Trú tại: Thôn Đ, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

+ Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1967 Trú tại: Thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Ông Th, ông H vắng mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 02/03/2020, tại khu vực cánh đồng thuộc địa phận thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện Vũ Thành D đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda - Wave RSX, biển kiểm soát 17B5 - XXX.XX đi một mình, có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu dừng lại và đưa D về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A để làm việc. Tại đây, tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước D đang mặc 01 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng, dạng cục. D khai nhận đó là gói Hêrôin D vừa mua với giá 100.000 đồng để sử dụng cho bản thân; kiểm tra chiếc xe mô tô trên không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và quản lý chiếc xe mô tô để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Thành D tại thôn D, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình không phát hiện, thu giữ gì.

Quá trình điều tra, Vũ Thành D khai nhận: Bản thân D là người nghiện chất ma tuý, thường mua Hêrôin về sử dụng cho bản thân. Khoảng 09 giờ ngày 02/3/2020, D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17B5-XXX.XX từ nhà đến xã A, huyện Quỳnh Phụ với mục đích mua Hêrôin để sử dụng. Khi đi đến khu vực ngã tư V, xã A, D dừng xe và đi bộ vào một ngõ nhỏ mua của một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, không biết tên và địa chỉ, 01 gói Hêrôin với giá 100.000 đồng rồi giấu vào túi quần bên trái phía trước đang mặc và đi ra lấy xe đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đi đến khu vực cánh đồng thuộc địa phận thôn V, xã A, huyện Q thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang Tại bản Kết luận giám định số 74/KLGĐ-PC09 ngày 03/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng 0,2194 gam (Không phẩy hai nghìn một trăm chín mươi bốn gam)”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Thành D không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên.

Cáo trạng số 43/CT-VKSQP ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố Vũ Thành D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Thành D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vũ Thành D và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng và nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo Vũ Thành D không tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh phụ, tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Thành D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án (bút lục số từ 72-83; 95-96); phù hợp với bản tường trình và biên bản ghi lời khai của những người chứng kiến là ông Mai Quang Th và ông Nguyễn Đức H (bút lục số từ 62-71); phù hợp với biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đinh Thị D (bút lục số 53-54) . Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 02/3/2020 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (bút lục số 01-02); biên bản niêm phong đồ vật (bút lục số 04); biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 07); bản kết luận giám định số 74/KLGĐ-PC09 ngày 03/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 08), cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 02/3/2020, tại khu vực cánh đồng thuộc địa phận thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, Vũ Thành D đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 0,2194 gam Hêrôin với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Vũ Thành D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248,250,251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại nơi xảy ra vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe và phẩm giá của con người nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi tàng trữ ma túy. Bản thân bị cáo năm 2016 đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng (chưa được xóa tiền sự), trước đó bị cáo còn bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau (năm 2010) và bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã (năm 2016) song bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, quyết tâm từ bỏ ma túy mà vẫn dấn sâu hơn vào con đường phạm tội. Do đó, cần thiết phải lên cho bị cáo mức án nghiêm nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm ma túy nói chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Thành D hoàn trả lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda - Wave RSX, biển kiểm soát 17B5- XXX.XX là phương tiện bị cáo Vũ Thành D sử dụng vào việc phạm tội. Tuy nhiên, đây là tài sản chung của bị cáo và vợ là chị Đinh Thị D. Chị D không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với Chị D là phù hợp. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, chị Đinh Thị D đề nghị được trả lại chiếc xe trên cho gia đình. Xét thấy chiếc xe mô tô cũng thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Chị D, nguồn tiền mua xe phần lớn là do Chị D bỏ ra. Mặt khác Chị D không có lỗi trong việc để bị cáo sử dụng xe vào mục đích phạm tội nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận đề nghị của Chị D trả lại chiếc xe cho chị là phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Liên quan đến vụ án này theo lời khai của bị cáo còn có người phụ nữ khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ, có hành vi bán ma túy cho bị cáo tại khu vực thôn V, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tuy nhiên Cơ quan điều tra không xác định được người phụ nữ trên nên không đủ căn cứu để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Thành D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Thành D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/3/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy toàn bộ 0,2040 gam (không phẩy hai nghìn không trăm bốn mươi gam) hêrôin hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 74/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại chị Đinh Thị D, sinh năm 1974, trú tại: Thôn D, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda - Wave RSX, biển kiểm soát 17B5-XXX.XX.

(Các vật chứng trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 46 ngày 16/4/2020 giữa Công an huyện Quỳnh Phụ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ).

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ Thành D phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Thành D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - chị Đinh Thị D có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/5/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về