Bản án 42/2020/HS-ST ngày 03/06/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 03/06/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong các ngày 20 tháng 5 năm 2020 và 27 tháng 5 năm 2020 (Tuyên án) tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/Tng Phước T; sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú: đường V, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: đường B, Phường K, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tống Phước M và bà: Nguyễn Thị N; tiền án: 01 (ngày 22/5/2012 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 57/2012/HSST); tiền sự: 02 (ngày 19/6/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 8 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 238/QĐ- TA, ngày 05/7/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 22 tháng theo Quyết định số 74/QĐ-TA); nhân thân: Ngày 12/4/2007 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 4 Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại Phường với thời hạn 06 tháng theo quyết định số 31/QĐ-UBND, ngày 11/9/2008 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 143/2008/HSST; bị bắt tạm giam ngày: 21/01/2020.

2/Lê Hoàng M; sinh năm: 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu Thường trú: đường T, Phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn G (chết) và bà: Hoàng Thị Tuyết L; tiền án: Không; tiền sự: 02 (ngày 13/10/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 22 tháng theo Quyết định số 142/QĐ-TA, ngày 03/01/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 03/QĐ- TA); nhân thân: Không tốt; bị bắt giữ ngày: 18/01/2020.

(Các bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Bà Lê Khắc Phương T3 – Sinh năm: 1991 (vắng mặt). Địa chỉ: đường H, Phường P, Quận S, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Ông Hồ Quốc T1 – Sinh năm: 1965 (vắng mặt). Địa chỉ: đường B, Phường B, Quận B, TP.HCM.

2/Ông Huỳnh L – Sinh năm: 1973 (vắng mặt). Địa chỉ: đường P, Phường H, Quận T, TP.HCM. (Chủ Hộ kinh doanh Ánh Lực) 3/Ông Hoàng Thuận T2 – Sinh năm: 1976 (vắng mặt). Địa chỉ: đường V, Phường T, Quận D, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 06/12/2019, Tống Phước T gọi điện thoại rủ Lê Hoàng M cùng đi cướp giật tài sản, M đồng ý. Sau đó, M điều xe môtô biển số 59C1-340.30 đến đón T và cả hai thống nhất với nhau là M điều khiển xe chở T ngồi sau trực tiếp giật tài sản. Đến khoảng hơn 19 giờ 00 phút cùng ngày, khi đến trước nhà số 419 đường Ngô Gia Tự, Phường 3, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì T nhìn thấy chị Lê Khắc Phương T3 đang dừng xe sát lề đường và sử dụng điện thoại di động hiệu Sony Xperia X, nên chỉ cho M thấy; M điều khiển xe vòng lại chạy cùng chiều từ phía sau lên áp sát bên trái của chị T3, để T ngồi sau giật chiếc điện thoại di động của chị T3 (diễn biến hành vi đã được camera ghi hình lại). Chị T3 tri hô cùng quần chúng nhân dân đuổi theo đến trước nhà số 353/3 đường Nguyễn Duy Dương, Phường 4, Quận 10 thì T, Minh bị té xe nên cả hai bỏ xe, chạy thoát. Sau đó, chị T3 đến Công an Phường 3, Quận 10 trình báo vụ việc. Công an Phường 3, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Ngày 18/01/2020, Lê Hoàng M bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 bắt quả tang về hành vi “Chống người thi hành công vụ” xảy ra tại trước nhà số 351 đường Hòa Hảo, Phường 5, Quận 10.

Qua truy xét, ngày 21/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiến hành bắt tạm giam đối với Tống Phước T; quyết định khởi tố điều tra đối với Tống Phước T, Lê Hoàng M về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Quá trình điều tra, Lê Hoàng M và Tống Phước T đã khai nhận hành vi như trên.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia X, sau khi chiếm đoạt T khai đưa cho M 100.000 đồng và để lại sử dụng. Tuy nhiên, do điện thoại bị hư nên ngày 08/12/2019 T đã bán lại cho một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) tại đường Lý Nam Đế, Quận 11 với giá 60.000 đồng. Tại Kết luận định giá tài sản số 1105/KL-ĐGTS ngày 19/12/2019 của Hội đồng định giá Thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận chiếc điện thoại trên có trị giá là 1.500.000 đồng. Chiếc điện thoại không thu hồi được nhưng chị Lê Khắc Phương T3 không yêu cầu bồi thường.

Đối với 01 xe môtô biển số 59C1-340.30. Qua xác minh, được biết chủ sở hữu hợp pháp là anh Hồ Quốc T1. Ngày 22/3/2019, anh T1 bán chiếc xe trên cho anh Huỳnh L. Ngày 30/9/2019, anh Lực bán lại xe cho ông Hoàng Thuận T2 (là cậu ruột của Lê Hoàng M). Ngày 06/12/2019, M mượn xe của ông T2 đi và sau đó cùng đồng phạm thực hiện hành vi tội phạm như trên. Việc M phạm tội, ông T2 không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 trả lại xe cho ông Tiến.

Tại Cáo trạng truy tố số 51/CT-VKS ngày 11 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Tống Phước T, Lê Hoàng M về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm đối với bị cáo T), giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo T bị bệnh hiểm nghèo HIV) của từng bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52: điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) tương ứng đối với từng bị cáo, xử phạt bị cáo:

Tống Phước T từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Lê Hoàng M từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của các bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của các bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản nhận dạng, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định các bị cáo Tống Phước T, Lê Hoàng M thống nhất ý chí hành động thực hiện hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai cướp giật tài sản của bị hại ngay trên đường phố, nên các bị cáo bị truy tố và xét xử theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong vụ án này, các bị cáo là đồng phạm thông mưu đơn giản, trong đó: Bị cáo T là người khởi xướng, phát hiện và trực tiếp chiếm đoạt tài sản, bị cáo Minh là đồng phạm giúp sức: Là người cung cấp phương tiện, chở đồng bọn chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát; ngoài ra các bị cáo còn có nhân thân xấu, cụ thể: Đối với bị cáo T: Ngày 19/6/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 8 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 238/QĐ-TA, ngày 05/7/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 22 tháng theo Quyết định số 74/QĐ-TA, ngày 12/4/2007 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 4 Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại Phường với thời hạn 06 tháng theo Quyết định số 31/QĐ-UBND (đã xóa tiền sự), ngày 11/9/2008 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 143/2008/HSST (đã xóa án tích), đối với bị cáo Minh: Ngày 13/10/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 22 tháng theo Quyết định số 142/QĐ-TA, ngày 03/01/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 03/QĐ-TA. Do vậy hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương; đồng thời căn cứ vào khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền, nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo T: Ngày 22/5/2012 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 57/2012/HSST; bị cáo đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo T bị bệnh hiểm nghèo (HIV); do vậy Hội đồng xét xử tương ứng áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với từng bị cáo; ngoài ra miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Minh.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại và các bên liên quan không có yêu cầu bồi Thường gì; nên không có gì để Tòa giải quyết.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Tống Phước T, Lê Hoàng M phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2, 5 Điều 171; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Tống Phước T;

Xử phạt bị cáo Tống Phước T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2020.

Phạt bổ sung bị cáo T 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Hoàng M;

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2020.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo M.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc:

- Bị cáo T chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

- Bị cáo M chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 03/06/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về