Bản án 42/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THUỶ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 42/2019/HSST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Đoàn Trường S; sinh ngay01/6/1982 tại xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: Khu 1 xã T, huyện T, tỉnh Phú Tho; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Thanh H (đã chết) và bà Dương Thị T (đã chết); có vợ: Nguyễn Thị T1; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo Đoàn Trường S bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện bị cáo đang tại ngoại tại xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên khoảng 18 giờ ngày 22/4/2019, Đoàn Trường S cầm theo số tiền khoảng 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) đi bộ trên đường tỉnh lộ 316 theo hướng đi cầu Trung Hà để tìm mua ma tuý. Khi đi đến cây xăng xã Tân Phương, huyện Thanh Thuỷ, S gặp anh Chu Ngọc A – Sinh năm 1975, ở Khu 3 xã T (là bạn của S) và hỏi mượn xe mô tô Dream BKS 19-067.xx của anh A đi có việc thì anh A đồng ý (S không nói với anh A mượn xe để đi mua ma tuý). Sau đó, S chở anh A về nhà rồi S điều khiển xe mô tô đi xuống cầu Trung Hà thuộc địa phận xã Thái Hoà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội để tìm mua ma tuý. Khi đến nơi, S gặp một người nam giới có dáng nghiện (S không biết tên tuổi, địa chỉ) nên S chủ động bắt chuyện, hỏi người nam giới có ma tuý heroine không, nếu có thì bán cho S 200.000đ tiền ma tuý. Người nam giới trả lời S là có, nên S đưa cho người nam giới số tiền 200.000đ, người nam giới cầm tiền rồi đưa lại cho S 01 gói giấy mặt ngoài có nhiều hoa văn màu sắc S biết bên trong gói giấy có chứa ma tuý Heroine. Sau đó, S cầm gói ma tuý vừa mua được đi về, trên đường về S vào 1 cửa hàng thuốc tây ở xã Hồng Đà, huyện Tam Nông (S không nhớ tên hiệu thuốc) mua 01 xi lanh nhựa loại 3ml/cc và 01 ống Novocain hết số tiền 5000đ. Khi đi về đến đoạn đường rẽ vào nghĩa trang thuộc khu 3, xã T, huyện T, S lấy gói ma tuý ra chia làm 2 phần, 1 phần S cho vào xi lanh nhựa để sử dụng, phần còn lại S gói lại. Đúng lúc đó, lực lượng Công an huyện Thanh Thuỷ tiến hành kiểm tra hành chính đối với S và thu giữ niêm phong số vật chứng thu giữ ở trên.

Ngày 23/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ đã ra Quyết định trưng cầu giám định chất bột cục màu trắng trong 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc và chất bột cục màu trắng gói trong 01 gói giấy mặt ngoài có hoa văn nhiều màu sắc, mặt trong màu trắng, bên trong gói giấy có chứa chất bột cục màu trắng thu giữ của Đoàn Trường S. Tại bản Kết luận giám định số 547/KLGĐ ngày 25/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “Chất bột, cục màu trắng chứa trong xi lanh nhựa màu trắng, loại 3ml/cc và trong 01 gói giấy mặt ngoài có hoa văn nhiều màu sắc, mặt trong màu trắng gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng là 0,155 gam, loại Heroine. Heroine là chất ma tuý nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”. Hoàn lại đối tượng giám định:

0,113 gam chất bột, cục màu trắng, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.

Tại bản cáo trạng số 45/CT-VKSTT ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy truy tố bị cáo Đoàn Trường S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Trường S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Trường S từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng và án phí.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, thể hiện thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên hồi 20 giờ, ngày 22/4/2019, tại khu 3 xã Tân Phương, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, bị cáo Đoàn Trường S đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý Heroine với mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Thanh Thủy kiểm tra, phát hiện, thu giữ và trưng cầu giám định mẫu vật thu giữ được của bị cáo S. Tại bản Kết luận giám định số 547/KLGĐ ngày 25/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “Chất bột, cục màu trắng chứa trong xi lanh nhựa màu trắng, loại 3ml/cc và trong 01 gói giấy mặt ngoài có hoa văn nhiều màu sắc, mặt trong màu trắng gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng là 0,155 gam, loại Heroine”.

Tại phiên toà cũng như tại cơ quan Điều tra, bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai nhận tại phiên tòa đều thống nhất với nhau, phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định, hành vi của bị cáo S là “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tội và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt đến 05 năm tù.

[2] Hành vi của bị cáo Đoàn Trường S là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất Nhà nước cấm tàng trữ trái phép, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội cũng như sức khỏe của con người, là mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật đề tàng trữ trái phép, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Do tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, qua xác minh của cơ quan cánh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy thì bị cáo S không có tài sản gì. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[5] Đối với anh Chu Ngọc A, là người đã cho bị cáo S mượn xe máy để đi mua ma tuý, nhưng khi mượn xe bị cáo S không nói cho anh A biết bị cáo đi đâu, làm gì và anh A cũng không biết việc bị cáo mượn xe máy của mình để đi mua ma tuý, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy không có căn cứ xử lý trong vụ án này, xét thấy phù hợp;

[6] Đối với người nam giới đã bán 01 gói ma tuý Heroine cho S với giá 200.000 đồng ở cầu Trung Hà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, S không biết tên, tuổi, địa chỉ của người nam giới ở đâu, ngoài lời khai của S thì không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy không có cơ sở để xác minh, làm rõ và đề cập xử lý trong vụ án này, xét thấy phù hợp.

[7] Đối với 01 xe mô tô Honda Dream màu nâu biển kiểm soát 19-067-xx của anh Chu Ngọc A. Do bị cáo S mượn để đi mua ma tuý, tuy nhiên anh A không biết việc bị cáo S sử dụng xe của mình để đi mua ma tuý, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã trả lại cho anh Chu Ngọc A là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 bì niêm phong số 547/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ được niêm phong, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán bên trong chứa 0,113 gam heroin là mẫu vật được hoàn trả sau giám định và 01 ống Novocain không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen xanh lắp sim số 0987.451.8xx và 01 điện thoại di động Nokia màu xám lắp sim số 0977.968.9xx là tài sản của bị cáo Đoàn Trường S không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[9] Bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Trường S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Đoàn Trường S 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Đoàn Trường S Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 547/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ được niêm phong, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ có chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán bên trong chứa 0,113 gam heroin là mẫu vật được hoàn trả sau giám định và 01 ống Novocain của bị cáo S;

Trả lại cho bị cáo Đoàn Trường S 01 điện thoại di động Nokia màu đen, xanh lắp sim số 0987.451.8xx. Số trên thẻ sim 0898404830018231xxx và 01 điện thoại di động Nokia màu xám lắp sim số 0977.968.9xx. Số trên thẻ sim 8984048000009308xxx.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2019.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đoàn Trường S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về