Bản án 42/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIÊN BIÊN

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2019/HSST ngày 14 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/QĐXX-ST ngày 05/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Thị T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 11 năm 1974 tại xã C, huyện T, tỉnh Đ. Nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Đ; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Không; con ông: Quàng Văn D, sinh năm 1946; con bà: Lò Thị O, sinh năm 1948, có chồng là Tòng Văn P (đã chết) và có 03 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Đã 02 lần bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma túy đac dược xóa án tích. Tạm giữ từ ngày 19/3/2019 đến ngày 22/3/2019 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ ngày 18/3/2019, bị cáo T đi làm ruộng về tới đoạn đường rẽ vào thủy điện thuộc bản C, xã C thì gặp một người phụ nữ không quen biết. Qua nói chuyện, được biết lợn gia đình bị cáo đang ốm nên người đó bảo T mua ma túy về chữa bệnh cho lợn. T đã mua của người đó 01 cục Heroine và 03 viên nén màu hồng giá 300.000đ. T cất giấu số ma túy trên trong túi quần rồi đi về nhà. T dùng tay chia nhỏ cục Heroine thành 08 gói sau đó gói lại bằng giấy và cho tất cả vào lọ thủy tinh, còn 03 viên nén màu hồng bị cáo gói vào mảnh 01 túi nilon màu xanh cất vào tủ trong phòng ngủ. Đến ngày 19/3/2019, chưa kịp sử dụng cho lợn thì bị tổ công tác công an huyện T bắt và thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Ngày 19/3/2019, cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định vật chứng. Số ma túy thu được của Quàng Thị T được xác định có khối lượng là 1,17 gam Heroine và 0,27 gam Methamphetamine.

Tại bản Kết luận giám định số: 402/GĐ-PC09 ngày 09/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: Mẫu vật gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Thị T là chất ma túy; loại Heroine; khối lượng vật chứng thu giữ là 1,17 gam. Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Thị T là chất ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng vật chứng thu giữ là 0,27 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 44/CT-VKS ngày 14/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Quàng Thị T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Quàng Thị T từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tuyên hủy 01 gói niêm phong chứa 1,04 gam Heroine và 0,18 gam Methamphetamine; 01 túi nilon màu xanh, 01 lọ thủy tinh hình trụ tròn màu trắng đường kính 03 cm nắp hình tròn bằng nhựa màu xanh và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 08 mảnh giấy.

- Không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/QH, miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án: Từ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án thể hiện:

Hi 11 giờ ngày 19/3/2019, tổ công tác Công an huyện T bắt quả tang Quàng Thị T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ gồm 08 gói Heroine đựng trong lọ thủy tinh và 03 viên ma túy tổng hợp cùng đựng trong 01 túi nilon xanh cất giấu trong phòng ngủ của T. T thừa nhận số ma túy trên là của T mua về để chữa bệnh cho lợn. Tổ công tác Công an huyện T, tỉnh Đ đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải T về Công an huyện T để làm rõ. Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng lập ngày 19/3/2019 cho thấy: Khối lượng 08 gói chất bột nghi Heroine qua cân xác định là 1,17 gam; 03 viên nén có khối lượng 0,27 gam. Qua giám định được kết luận là chất ma túy, loại Heroine và Methamphetamine.

Các trình tự thủ tục trên được tiến hành đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự và thể hiện được tính chính xác, khách quan của vụ án. Tại giai đoạn điều tra bị cáo thừa nhận số Heroine và Methamphetamine đó của bị cáo mua về để sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho gia súc. Nguồn gốc: Bị cáo mua của một người không quen biết vô tình gặp ở bản. Tại phiên tòa, bị cáo khai thừa nhận hành vi phạm tội và bị bắt quả tang như đã khai nhận tại giai đoạn điều tra. Bị cáo khai mục đích tàng trữ Heroine và Methamphetamine là để chữa bệnh cho gia súc.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp nhau, phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng vật chứng; bản kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ lời khai của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với các chứng cứ trên có đủ căn cứ xác định 1,17 gam Heroine và 0,27 gam Methaphetamine thu giữ là của bị cáo Quàng Thị T.

Hành vi tàng trữ 1,44 gam ma túy gồm: 1,17 gam Heroine và 0,27 gam Methamphetamine để sử dụng cho gia súc của Quàng Thị T đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm được qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Bởi vậy, VKSND huyện T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản diểm nêu trên là chính xác.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm sự độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội bởi ma túy là hiểm họa của con người, gây nên tệ nạn nghiện hút hủy hoại kinh tế, sức khỏe và nhân cách con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần xử lý nghiêm minh.

[3]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ TNHS. Bản thân không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu. Năm 2007, phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy bị TAND huyện T xử phạt 24 tháng tù. Năm 2013, bị TAND huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 33 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 31/8/2015 được đặc xá trở về địa phương. Đến ngày 19/3/2019, tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ sự ngoan cố không chịu cải tạo của bị cáo nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo như mức đề nghị của đại diện VKS là phù hợp.

[4] Các vấn đề khác:

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định nên cần miễn cho bị cáo.

Đi với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết tên tuổi địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.

Vật chứng vụ án là 01 gói niêm phong Heroine, Methamphetamine cần áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu để hủy.

Bị cáo sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.

[5] Hành vi tố tụng: Các Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng qui định của pháp luật tố tụng thể thể hiện được tính chính xác, khách quan của vụ án. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Thị T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Thị T 30 (ba mươi) tháng tù. Được trừ 03 ngày tạm giữ. Thời gian còn phải chấp hành tiếp là 29 (hai mươi chín) tháng, 27 (hai mươi bảy) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Vt chứng: Tuyên tịch thu để hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa mẫu số 2 là 1,04 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon trắng gắn kín lại và mẫu số 1 là 0,18 gam Methamphetamine đựng trong 01 túi nilon trắng gắn kín lại, 01 túi nilon màu xanh, 01 lọ thủy tinh hình trụ tròn màu trắng đường kính 03 cm nắp hình tròn bằng nhựa màu xanh và 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng, 08 mảnh giấy.

Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho số: PNKVC 64 ngày 30/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/6/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về