Bản án 417/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHẬN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 417/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 860/2018/TLST-HNGD ngày 08/10/2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Minh H; Địa chỉ: đường N, phường H, Quận A, Thành phố H

2. Bị đơn: ông Phạm Đức N; Địa chỉ: đường N, phường H, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh

(Bà H có mặt, ông N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện nộp ngày 25/9/2018, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh H trình bày:

Bà và ông Phạm Đức N quen nhau từ năm 2000. Đến năm 2002 thì tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, Quận A, Thành phố H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống bình thường. Từ năm 2005 thì vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, lối sống. Mỗi lần ông N nhậu say thì về chửi bới vợ con, đập phá đồ đạc. Từ tháng 9/2018, ông bà tuy sống chung nhà nhưng như ly thân. Hiện nay, bà không còn tình cảm với ông N nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, để ổn định cuộc sống bà yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn ông N.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Đức M và Phạm Tuyết M1. Bà đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Không có

- Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phạm Đức N trình bày:

Về thời gian đăng ký kết hôn, tình trạng hôn nhân hiện nay của vợ chồng như bà H trình bày. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa vợ chồng chủ yếu xuất phát từ việc bà H có lời nói không chuẩn mực khi ông say nên mới có tranh chấp. Ông không đồng ý ly hôn với bà H vì ông vẫn còn thương vợ, không muốn gia đình bị chia rẽ.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Đức M và Phạm Tuyết M1. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ông bà ly hôn thì ông yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông N; Yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trừ việc Tòa án vi phạm về thời hạn đưa vụ án ra xét xử.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Giao 02 con chung cho bà H nuôi dưỡng. Ghi nhận việc bà H không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. về tài sản chung: Tụ thỏa thuận; Về nợ chung: Không có. Bà H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà H yêu cầu ly hôn ông N và ông N cư trú tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh nên đây là vụ án tranh chấp ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

*Về thủ tục tố tụng: Ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông N.

* Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân phường H, Quận A, Thành phố H cấp, thì quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông N là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, bà H và ông N xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, lối sống và khi ông N nhậu say thì về chửi bới vợ con, đập phá đồ đạc. Bà H đã nhiều lần tha thứ, tạo điều kiện cho ông N sửa đổi nhược điểm của bản thân nhưng ông N không khắc phục được. Từ tháng 9/2018, ông bà tuy vẫn sống chung nhưng không còn quan tâm lẫn nhau, không ai có trách nhiệm với ai trong cuộc sống. Việc ông N xác định nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do bà H có lời nói không chuẩn mực trong lúc ông say nên vợ chồng mới mâu thuẫn và mong muốn vợ chồng hàn gắn vì còn thương vợ con, không muốn gia đình chia rẽ, đồng thời gia đình không mâu thuẫn đến mức trầm trọng như bà H đã trình bày. Xét, qua quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tạo điều kiện để ông bà nói chuyện, hàn gắn gia đình nhưng bà H kiên quyết ly hôn và ông N cũng không đưa ra được phương án nào để vợ chồng hòa giải, đoàn tụ. Mặt khác, Tòa án đã triệu tập ông N tham gia phiên tòa nhưng ông vẫn vắng mặt không có lý do, thể hiện việc ông N không còn mong muốn tiếp tục hàn gắn gia đình. Nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa bà H và ông N không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho ly hôn giữa bà H và ông N.

[2] Về con chung: Căn cứ 02 Giấy khai sinh của Ủy ban nhân dân phường H, Quận A, Thành phố H và lời khai của bà H, ông N thì có đủ căn cứ xác định bà H và ông N có 02 người con chung là Phạm Đức M và Phạm Tuyết M1.

Xét, bà H và ông N cùng có yêu cầu đuợc nuôi dưỡng 02 con và ông bà cũng có đủ điều kiện để chăm sóc con nhưng việc quyết định giao con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng thì Hội đồng xét xử phải xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con.

Xét, bà H, ông N và 02 con chung đều sống ổn định tại nhà của bố mẹ bà H từ nhiều năm nay, bà H và ông N không có nhà riêng. Đồng thời, nguyện vọng của 02 con chung đều muốn ở với bà H và thiết nghĩ không cần thiết phải thay đổi cuộc sống ổn định của 02 trẻ lâu nay. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà H được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà H không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi 02 con, đây là sự tự nguyện của bà H, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Về tài sản chung: Các đương sự thống nhất tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về nợ chung: Các đương sự xác định không có nên Hội Đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 51, 56, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Minh H và ông Phạm Đức N

2. Về con chung: Giao bà Nguyễn Thị Minh H trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Phạm Đức M và Phạm Tuyết M1. Ông Phạm Đức N không cấp dưỡng nuôi con

Ông Phạm Đức N có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng bà Nguyễn Thị Minh H chịu, nhưng được trừ vào 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Minh H đã nộp đủ án phí.

6. Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân phường H, Quận A, Thành phố H cấp cho bà Nguyễn Thị Minh H và ông Phạm Đức N không còn giá trị pháp lý.

7. Bà Nguyễn Thị Minh H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Phạm Đức N vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 417/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:417/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về