Bản án 414/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 414/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 325/2019/HSST ngày 05/7/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 391/2019/QĐXXST-HS ngày 13/8/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Hà Tuấn A

Tên gọi khác: không.

Giới tính: Nam

Sinh ngày: 04/12/2002.

Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Tày - Tôn giáo: Không.

Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước.

Nghề nghiệp: Không - Chức vụ : Không.

Trình độ học vấn: 8/12.

Họ tên cha: Hoàng Ngọc T, sinh năm 1972 (còn sống).

Họ tên mẹ: Hà Thị T, sinh năm 1974 (còn sống).

Em ruột: Hoàng Hà Hải Đ, sinh năm 2007.

Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/05/2019, chuyển tạm giam theo lệnh số 248 ngày 23/05/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Tuấn A:

Ông Hoàng Ngọc T - Sinh năm 1972 (là cha ruột của bị cáo Tuấn A)

Bà Hà Thị T - Sinh năm 1974 (là mẹ ruột của bị cáo Tuấn A)

Địa chỉ: thôn T, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước.

Người bào chữa cho bị cáo Tuấn A: Luật sư Trần Hữu N - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Trần Hữu N - Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.

- Bị hại:

1. Bà Hà Thị H - Sinh năm 1962

Địa chỉ: 30/13, tổ 4, Khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2. Bà Dương Thị L - Sinh năm 1981

Ông Cù Hồng P - Sinh năm 1983

Địa chỉ: Hẻm 1, tổ 31, Khu phố 4B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đoàn Thị Hồng N

Địa chỉ: 448 tổ 7, khu phố 4, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo Tuấn A, bà T, luật sư N, bà L, bà N có mặt tại phiên tòa; bà H có đơn xin xét xử vắng mặt; ông T, ông P vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Hà Tuấn A, sinh ngày 04/12/2002 là người nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài, Tuấn A đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 22/04/2019, Tuấn A đến nhà bà Hà Thị H (là bác ruột của Tuấn A ) chơi. Lợi dụng bà H đi vắng, Tuấn A lấy 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad Apple loại 16GB, rồi đem đến tiệm điện thoại di động “Minh Trí”, địa chỉ : 448, tổ 7, khu phố 4, phường L, thành phố B bán cho bà Đoàn Thị Hồng N là chủ tiệm với giá 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng). Sau đó Tuấn A đón xe về xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước chơi game và mua ma túy sử dụng hết. Sự việc xảy ra bà H nghi ngờ Tuấn A là người trộm cắp nên đã trình báo công an phường T, thành phố B và nói cho bà Hà Thị T (là mẹ của Tuấn A biết). Bà T đã tìm gặp Tuấn A và Tuấn A đã thừa nhận trộm cắp máy tính bảng của bà H và chỉ nơi bán chiếc máy tính bảng. Ngày 25/04/2019 bà T đã đến gặp bà Đoàn Thị Hồng N để chuộc lại chiếc máy tính bảng trên với giá 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng ). Đến ngày 27/04/2019, biết Tuấn A đang ở nhà nghỉ “Hồng Vy”, địa chỉ: khu phố 5, phường T, thành phố B nên bà T đã báo công an phường T đưa Tuấn A về phường làm việc. Do Tuấn A chưa đủ 18 tuổi và phải định giá tài sản mới có căn cứ xử lý nên sau khi lấy 1 ời khai của Tuấn A xong, Công an phường T tạm cho Tuấn A về chờ xử lý sau.

Tang vật thu giữ : 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad loại 16GB, model Air 2 (MHOW2LLA), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi giao trả lại cho bà Hà Thị H.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 190/TCKH-HĐĐG ngày 20/05/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa đã kết luận: 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad , loại 16GB, model Air 2 (MHOW2LLA), có giá trị định giá là 2.650.000 đồng (Hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Về bồi thường dân sự: Bà Hà Thị H đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bồi thường gì khác.

- Vụ thứ 2: Khoảng 08 giờ ngày 03/05/2019, Tuấn A đến cơ sở cơ khí “Phú Bình Nguyên” tại địa chỉ: tổ 31, khu phố 3, phường T, thành phố B gặp ông Cù Hồng P để xin việc làm, và được ông P đồng ý nhận vào làm việc. Đến khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, Tuấn A phát hiện 01 chiếc xe mô tô biển số 60B1-509.01 nhãn hiệu Yamaha Nouvo của bà Dương Thị L (là vợ ông P) dựng ở giữa xưởng, chìa khóa cắm ở ổ khóa (trong cốp xe có 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM của ngân hàng Vietcombank mang tên bà L và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 60B 1-509.01 mang tên anh P). Tuấn A liền nảy sinh ý định trộm cắp, lợi dụng vợ chồng bà L không để ý nên Tuấn A đã lấy trộm chiếc xe mô tô trên chạy về tỉnh Bình Phước tìm nơi tiêu thụ nhưng không được. Sau đó Tuấn A đưa chiếc xe trên cho Nguyễn Huy L , sinh năm 1987, ngụ tại: thôn T, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước giữ. Sự việc xảy ra vợ chồng bà Dương Thị L đã trình báo công an phường T, thành phố B lập hồ sơ chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Qua điều tra ngày 15/05/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Hoàng Hà Tuấn A để điều tra xử lý.

Tang vật vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 60B1-509.01 nhãn hiệu Yamaha Nouvo, Tuấn A khai đưa cho Nguyễn Huy L giữ, hiện nay L không có mặt tại địa phương; 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 60B 1-509.01 thì Tuấn A vứt bỏ nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa chưa thu hồi được.

- 01 thẻ ATM của Ngân hàng Vietcombank mang tên bà Dương Thị L, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho bà L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 196/TCKH-HĐĐG ngày 20/05/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa đã kết luận: 01 xe mô tô, biển số 60B1-509.01 nhãn hiệu Yamaha Nouvo, có giá trị định giá là 18.200.000 đồng (Mười tám triệu hai trăm nghìn đồng).

Về bồi thường dân sự: Bà Dương Thị L yêu cầu bị cáo Hoàng Hà Tuấn A phải bồi thường số tiền 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 337/CT-VKSBH ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Hoàng Hà Tuấn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt: Bị cáo Tuấn A từ 12 đến 14 tháng tu

Ý kiến người bào chữa cho bị cáo Tuấn A: Nhất trí tội danh và điều luật Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người dân tốt, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Đề nghị xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ ngày 22/4/2019, Hoàng Hà Tuấn A đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy tính bảng nhãn hiệu Ipad , loại 16GB, model Air 2 (MHOW2LLA), trị giá 2.650.000 đồng (Hai triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng) của bà Hà Thị H. Tiếp đến ngày 03/05/2019, Tuấn A có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô , biển số 60B1-509.01 nhãn hiệu Yamaha Nouvo, trị giá 18.200.000 đồng (Mười tám triệu hai trăm nghìn đồng) và 01 số giấy tờ tùy thân của chị Dương Thị L thì bị phát hiện và bị bắt giữ để điều tra, xử lý.

[3] Hành vi của bị cáo Hoàng Hà Tuấn A đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo là người dân tộc. Bị cáo phạm tội khi mới 16 tuổi 04 tháng, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị cáo Tuấn A chưa đủ 18 tuổi và không có tài sản gì, nên buộc ông Hoàng Ngọc T, bà Hà Thị T bồi thường 13.000.000đ cho ông Cù Hồng P, bà Dương Thị L.

Riêng bà Hà Thị H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm về mặt dân sự, nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Ông Hoàng Ngọc T, bà Hà Thị T phải chịu 650.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

[9] Đối với Nguyễn Huy L có hành vi giữ chiếc xe mô tô biển số 60B 1-509.01 của Tuấn A. Hiện nay L không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa sẽ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[10] Đối với bà Đoàn Thị Hồng N có hành vi mua máy tính bảng hiệu Ipad Apple của Tuấn A, khi mua bà N không biết tài sản trên do Tuấn A phạm tội mà có, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không xử lý.

[11] Nhận định của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nên được chấp nhận.

[12] Nhận định của người bào chữa cho bị cáo Tuấn A phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Hà Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Hà Tuấn A 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 15/5/2019.

- Áp dụng khoản 2 Điều 586, Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14:

Buộc ông Hoàng Ngọc T, bà Hà Thị T bồi thường cho ông Cù Hồng P, bà Dương Thị L số tiền 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án), hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bị cáo Hoàng Hà Tuấn A phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Ông Hoàng Ngọc T, bà Hà Thị T phải chịu 650.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Tuấn A, bà T, người bào chữa cho bị cáo Tuấn A, bà L, bà N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bà H, ông P, ông T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 414/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:414/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về