Bản án 413/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 413/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 388/2019/HSST ngày 08 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 403/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị Hoài Th . Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: không.

Sinh năm 1997, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 16/12B, khu phố C, phường B , thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: không. Trình độ học vấn: Lớp 11/12. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Con ông Trần Hiếu P , sinh năm 1970 và bà Trần Thị Đ , sinh năm 1975. Bị cáo là con một. Chưa có chồng và có 02 con (một con sinh ngày 11/01/2016 và 01 con sinh ngày 30/8/2018).

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/4/2019, đến ngày 26/4/2019 được tại ngoại. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thị Hoài Th là người sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 21/4/2019, Thương đi đến khu vực phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa gặp 01 người thanh niên tên N (không rõ nhân thân) mua 04 gói ma túy với giá 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) để sử dụng. Sau khi mua, Th cất giấu ma túy trong ví da đeo trên người và đi đến phòng trọ của anh Trần Quốc S tại địa chỉ 160/31/9/7, khu phố B, phường Q , thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chơi (anh sang không biết Th cất giấu ma túy).

Đến 23 giờ 05 phút ngày 21/4/2019, tại phòng trọ của anh S , khi Th đang cất giấu 04 gói ma túy đựng trong ví da đeo trên người thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. Biên Hòa kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vt chứng thu giữ gồm:

+ 04 (Bốn) gói nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, đã được niêm phong có chữ ký của Trần Thị Hoài Th và hình dấu tròn đỏ của Công an phường Quyết Thắng.

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu HTC, số thuê bao 0786840793, số IMEI: 358233060146359 là tài sản cá nhân của Th .

+ 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) là tài sản cá nhân của Th .

Tại Kết luận giám định số: 303/PC09-GĐMT ngày 25/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2844gam, loại: Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 393/CT-VKSBH ngày 01 tháng 8 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Trần Thị Hoài Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Thị Hoài Th khai nhận hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra, công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, là đúng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh như đã nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo như sau:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt (chưa có tiền án, tiền sự) hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Trần Thị Hoài Th từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Hoài Th không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Về án phí: Bị cáo Trần Thị Hoài Th , phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét thấy, lời khai của bị cáo Trần Thị Hoài Th tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:

Bị cáo Trần Thị Hoài Th là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào 23 giờ 05 phút ngày 21/4/2019, tại phòng trọ số 160/31/9/7, khu phố B, phường Q , thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,2844gam, loại Methamphetamine đựng trong ví da đeo trên người của bị cáo thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. Biên Hòa kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Về tội danh:

Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Trần Thị Hoài Th đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song với nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự, hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ phần nào khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy số lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 gói niêm phong số 303/PC09-GĐMT ngày 25/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Hoàn trả lại cho bị cáo Trần Thị Hoài Th 01 (Một) điện thoại di động hiệu HTC, số thuê bao 0786840793, số IMEI: 358233060146359 và số tiền mặt 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), do không liên quan đến việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/8/2019 và Biên lai thu tiền số 000241 ngày 22/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa).

[9] Đối với đối tượng tên N đã có hành vi bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo Trần Thị Hoài Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Hoài Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Trần Thị Hoài Th 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2019 đến ngày 26/4/2019 được trừ vào thời gian chấp hành án phạt tù nêu trên.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy số lượng ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 gói niêm phong số 303/PC09-GĐMT ngày 25/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Hoàn trả lại cho bị cáo Trần Thị Hoài Th 01 (Một) điện thoại di động hiệu HTC, số thuê bao 0786840793, số IMEI: 358233060146359 và số tiền mặt 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), do không liên quan đến việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/8/2019 và Biên lai thu tiền số 000241 ngày 22/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Trần Thị Hoài Th phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo Trần Thị Hoài Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 413/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:413/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về