Bản án 41/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 03 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 03 năm 2019 đối với:

Bị cáo Nguyễn Đức T; sinh năm 1991 tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số Q tổ W, quận H, thành phố Hà Nội; nơi ở: không cố định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và con bà Tạ Diệu H; gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ là Trần Thị Quỳnh T; có 01 con sinh năm 2012; tiền án: có 01 tiền án: ngày 29-03-2017, Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử 20 tháng về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (chưa xoá án tích); tiền sự: không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 30-11-2018; tạm giam ngày 06-12-2018. Danh chỉ bản số14, lập ngày 03-12-2018 tại Công an quận Hai Bà Trưng. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng cuối tháng 11-2018, Nguyễn Đức T đi bộ ra khu vực cổng bệnh viện Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để tìm mua ma tuý về để sử dụng. Tại đây T có gặp và mua của một phụ nữ không quen biết một túi nilong bên trong có chứa 34 viên nén màu cam và 49 viên nén màu tím đều là ma túy tổng hợp với giá 16.600.000 đồng (Mười sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) để sử dụng dần. T cất gói ma tuý vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi lang thang. Khoảng 23 giờ 40 ngày 29-11-2018, T gọi cho bạn là Trần Trung H đến khu vực chợ Mơ, phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội đón Trung. Khoảng 00 giờ 30 ngày 30-11-2018, H và bạn là Lê Huy P điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn vàng đen bạc BKS 29H1-683.59 đến đón T. Khi T, H, P đi đến khu vực trước số 273 ngõ Quỳnh, phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị Tổ công tác số 2 – Tiểu đoàn Cảnh sát cơ động số 2 kiểm tra. Nguyễn Đức T đã tự nguyện lấy từ túi quần bên trái phía trước đang mặc ra 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng 06x10cm bên trong chứa 34 viên nén màu cam, 49 viên nén màu tím ra giao nộp cho Cơ quan Công an. Tại chỗ, T khai nhận 83 viên nén đều là ma túy tổng hợp của T mua về để sử dụng.

Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đều đã qua sử dụng; thu giữ của P một xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen bạc BKS 29H1-683.59, số máy 7098687, số khung 098599.

Ngày 30-11-2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số ma tuý thu giữ của Nguyễn Đức T. Tại bản kết luận giám định số 9077A/KLGĐ-PC54 ngày 06-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội đã kết luận:

“ - 34 viên nén màu cam đều là ma tuý loại Delta-9-tetrahydrocanabinol, tổng khối lượng 12,888 gam.

- 49 viên nén màu tím đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng 12,602 gam”.

Ngày 30-11-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tổ chức dẫn giải đối với Nguyễn Đức T để xác định nơi T mua ma túy và người đã bán ma túy cho T. Kết quả T xác định được vị trí mua ma túy là trước số 81 phố Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội nhưng không xác định được người đã bán ma túy cho T. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng không có căn cứ xác minh xử lý.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29H1-683.59, số máy HC12E7098687, số khung RLHHC125XFY098599 thu giữ của Lê Huy P, quá trình điều tra đã xác minh được chủ sở hữu là Lê Huy P nên ngày 01-12-2018, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho Lê Huy P.

Tại bản Cáo trạng số 42/CT-VKSHBT-HS ngày 07-03-2019,Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố Nguyễn Đức T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo T giữ nguyên lời khai như tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Đức T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T với mức án từ 8 (tám) đến 9 (chín) năm tù; hình phạt bổ sung: không áp dụng; tịch thu tiêu huỷ 12,888 gam ma tuý loại Delta-9-tetrahydrocanabinol và 12,602 gam ma tuý loại MDMA; trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 30-11-2018, tại khu vực trước số 273 ngõ Quỳnh, phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Nguyễn Đức T đã có hành vi tàng trữ trái phép 12,888 gam ma tuý loại Delta-9-tetrahydrocanabinol và 12,602 gam ma tuý loại MDMA.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền kiểm soát và quản lý các chất ma tuý của nhà nước gây mất trật tự trị an, gây bất bình và tâm lý lo lắng trong nhân dân. Ma túy đang là mối hiểm họa cho mỗi gia đình và toàn bộ xã hội, đặc biệt Delta-9-tetrahydrocanabinol và MDMA là một loại ma túy tổng hợp gây ảo giác hoang tưởng cho người sử dụng dẫn đến hủy hoại sức khỏe, gây suy thoái đạo đức lối sống và làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm khác. Nhà nước đã có nhiều chính sách cương quyết tuyên truyền vận động đến chế tài xử lý nghiêm khắc mọi hành vi liên quan đến ma tuý. Bị cáo đang ở độ tuổi lao động và cống hiến nhưng không chịu lao động chân chính giúp ích cho bản thân gia đình và xã hội, hậu quả là phải đứng trước bục khai báo ngày hôm nay chịu sự xử lý của pháp luật. Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản Cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Đức T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét nhân thân bị cáo Nguyễn Đức T: Năm 2017, bị cáo có một tiền án cũng về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng chưa được xoá án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, bị coi là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Điều này thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật, đã bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không chịu sửa chữa khắc phục, lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân để rèn luyện trở thành công dân tốt mà lại tiếp tục thực hiện tội phạm với cùng loại tội. Do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học, răn đe người khác. Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét bị cáo T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tại phiên toà, bị cáo T khai trước khi phạm tội bị cáo có công việc với mức thu nhập là 10.000.000đ (mười triệu đồng)/tháng, nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo với mức 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

[5] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T tại khu vực trước cổng bệnh viện Thanh Nhàn do T khai không biết rõ tên tuổi địa chỉ của người phụ nữ, cơ quan điều tra đã dẫn giải Tdến địa điểm mua ma tuý để xác định người đã bán ma tuý cho T nhưng T không xác định được. Do vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh xử lý là có cơ sở.

- Đối với Trần Trung H, Lê Huy P, quá trình điều tra xác định P và Hiếu không biết việc Nguyễn Đức T tàng trữ trái phép chất ma tuý vì vậy Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan điều tra đã thu giữ 12,888 gam ma tuý loại Delta-9- tetrahydrocanabinol và 12,602 gam ma tuý loại MDMA - đây là chất độc hại, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức T: xác định T không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Về chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS 29H1-683.59, số máy HC12E7098687, số khung RLHHC125XFY098599 thu giữ của Lê Huy P: quá trình điều tra xác minh được chủ sở hữu là Lê Huy P nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho P là có căn cứ.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, Xử phạt: Nguyễn Đức T 8 (tám) năm 6 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 30 tháng 11 năm 2018.

Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Đức T là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên trong có một gói nilong chứa 12,888 gam ma tuý loại Delta-9-tetrahydrocanabinol và 12,602 gam ma tuý loại MDMA bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Nguyễn Đức T;

- Trả lại cho Nguyễn Đức T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, số Imei: 358561087334800 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, số Imei 352043074216528.

Các vật chứng trên hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 07 tháng 3 năm 2019 giữa Công an quạn Hai Bà Trưng với Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo Nguyễn Đức T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về