TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 41/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 213/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 461/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 508/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim T; nơi cư trú: Đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; tạm trú: Phường D, quận E, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Mai Tất T; nơi cư trú: Đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự ly hôn ngày 25/5/2019, trong bản tự khai, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim T và anh Mai Tất T kết hôn năm 2011 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 10/02/2012. Sau khi kết hôn anh chị sống chung cùng gia đình nhà chồng, cuộc sống bình thường, hạnh phúc được khoảng 01 năm. Sau đó, giữa hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Anh T không quan tâm, chăm sóc gia đình, không tu chí làm ăn, mải mê chơi bời, cờ bạc. Do vậy, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, bất hòa, không khí gia đình luôn căng thẳng, làm cả hai vợ chồng đều mệt mỏi. Chị T đã nhiều lần khuyên nhủ, động viên chồng tu chí làm ăn, sửa chữa sai lầm nhưng anh T không thay đổi làm chị T thất vọng, chán nản và tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Chị T chuyển về nhà bố mẹ đẻ ăn ở, sinh hoạt tại phường D, quận E, thành phố Hải Phòng. Từ khi ly thân đến nay, hai vợ chồng không còn quan tâm nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên động viên, khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả. Vì mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T để giải phóng choặcả hai người.
Về con chung: Quá trình chung sống chị T và anh T có hai con chung là Mai Gia B, sinh ngày 11/10/2012 và Mai Gia H, sinh ngày 22/8/2016. Từ khi ly thân, cháu H ở cùng chị T, cháu B ở cùng anh T nên khi ly hôn, chị T có nguyện vọng nuôi cháu H, anh T nuôi cháu B để không làm xáo trộn việc học tập, sinh hoạt của các con. Chị T có chỗ ở và công việc ổn định nên đảm bảo việc chăm sóc con. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị T trình bày, chị và anh T tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Mai Tất T vắng mặt tại các phiên hòa giải, vắng mặt hai lần tại phiên tòa không c lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật về việc có m t tại Tòa án để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa hai lần không c lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng quy định theo điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án đã thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa, đề nghị Tòa án áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, choặchị T được ly hôn với anh T. Giao con Mai Gia H choặchị T nuôi, giao con Mai Gia B cho anh T nuôi; việc cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết; tài sản chung nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết. Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016, chị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định: Xét về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Mai Tất T cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thời hạn giải quyết vụ án: Vụ án thụ lý ngày 27/5/2019 đến ngày 06/8/2019 có quyết định đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn là anh Mai Tất T đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T không đến Tòa dù đã được triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa ngày 28/8/2019, anh Mai Tất T vắng mặt lần thứ nhất không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Vì không tống đạt được Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nên Tòa án đã niêm yết công khai Quyết định hoãn phiên tòa số 508/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2019 tại nơi cư trú của anh T, trụ sở Ủy ban nhân dân phường Máy Chai và tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền. Tại phiên tòa hôm nay, anh T tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Xét về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân:
[4] Điều kiện và quá trình kết hôn như chị T đã trình bày, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị T và anh T chung sống được một thời gian thì nảy sinh mâu thuẫn. Giữa hai người bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh T thiếu sự quan tâm đến gia đình, vợ con. Hai vợ chồng không c sự yêu thương, quan tâm và chăm sóc nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Hiện tại, chị T và anh T đã sống ly thân. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
- Về việc nuôi con:
[5] Chị T và anh T có hai con chung như chị T đã trình bày. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi anh T và chị T sống ly thân, cháu Mai Gia B ở với bố, cháu Mai Gia H ở với mẹ nên khi ly hôn giao con Mai Gia B cho anh T nuôi, giao con Mai Gia H choặchị T nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của các bên, không làm ảnh hưởng việc sinh hoạt, học tập của các cháu. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về việc chia tài sản chung:
[6] Chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về án phí:
[7] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, chị Nguyễn Thị Kim T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Thị Kim T được ly hôn anh Mai Tất T.
2. Về việc nuôi con:
Chị Nguyễn Thị Kim T và anh Mai Tất T có hai con chung là Mai Gia B, sinh ngày 11 tháng 10 năm 2012 và Mai Gia H, sinh ngày 22 tháng 8 năm 2016. Giao con chung con Mai Gia B cho anh T trực tiếp nuôi, giao con Mai Gia H choặchị Nguyễn Thị Kim T trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung:
Chị Nguyễn Thị Kim T không yêu cầu chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị Kim T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 5822 ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án:
Chị Nguyễn Thị Kim T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Anh Mai Tất T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 41/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về