Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 20 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 494/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mai H; nơi cư trú: đường A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Mai Xuân H; nơi cư trú: đường D, phường E, quận G, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự ly hôn ngày 27/11/2018, trong bản tự khai, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mai H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mai H và anh Mai Xuân H kết hôn năm 2011 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 13/10/2011. Sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường và đã có một con chung. Đến khoảng năm 2016, vợ chồng anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Anh H không quan tâm, chăm sóc gia đình, thường xuyên tụ tập bạn bè uống rượu. Do vậy, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng nên hai vợ chồng sống ly thân từ khoảng tháng 4/2017 đến nay. Chị H chuyển về nhà bố mẹ đẻ ăn ở, sinh hoạt. Từ khi ly thân đến nay, hai vợ chồng không còn quan tâm nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên động viên, khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả. Vì mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H để giải phóng cho cả hai người.

Về con chung: Quá trình chung sống chị H và anh H có một con chung là Mai Xuân P, sinh ngày 25/7/2013. Từ khi ly thân, cháu P ở cùng chị H nên khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi con do cháu còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của mẹ và do công việc của anh H thường xuyên phải đi công tác nên không có thời gian chăm sóc con. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H trình bày, chị và anh H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Mai Xuân H vắng mặt tại các phiên hòa giải, vắng mặt hai lần tại phiên tòa không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Tuy nhiên, anh H có quan điểm thể hiện trong bản tự khai gửi Tòa án như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Mai Xuân H đồng ý với chị H về điều kiện và quá trình kết hôn. Theo anh H, sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường tại địa chỉ đường D, phường E, quận G, thành phố Hải Phòng và đã có một con chung. Trong quá trình chung sống, hai vợ chồng không có mâu thuẫn trầm trọng mà chỉ bất đồng quan điểm trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như khác biệt trong cách nói chuyện, sinh hoạt cá nhân. Đến ngày 01/5/2017, chị H cùng con về chuyển về nhà bố mẹ đẻ ăn ở, sinh hoạt và anh chị sống ly thân từ đó cho tới nay. Anh H đã nhiều lần động viên, khuyên bảo nhưng không có kết quả. Hiện nay, chị H có đơn xin ly hôn tại Tòa án, quan điểm của anh H mong muốn Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ. Trường hợp chị H vẫn kiên quyết ly hôn, anh H đồng ý giải quyết theo yêu cầu của chị H.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh H và chị H có một con chung như chị H đã trình bày. Anh H đồng ý giao con cho chị H nuôi do cháu còn nhỏ. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh H và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh H trình bày anh và chị H không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật về việc có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng quy định theo điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án đã thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa, đề nghị Tòa án áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị H được ly hôn với anh H. Giao con Mai Xuân P cho chị H nuôi; việc cấp dưỡng nuôi con chị H và anh H tự thỏa thuận nên không xem xét giải quyết; tài sản chung nguyên đơn không yêu cầu nên không đ t vấn đề giải quyết. Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016, chị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu c trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định: Xét về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Mai Xuân H cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hạn giải quyết vụ án: Vụ án thụ lý ngày 12/12/2018 đến ngày 12/4/2019 có quyết định đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn là anh Mai Xuân H đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H không đến Tòa dù đã được triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, anh H đã có quan điểm trong bản tự khai gửi Tòa án. Tại phiên tòa ngày 02/5/2019, anh Mai Xuân H vắng mặt lần thứ nhất không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Vì không tống đạt được Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nên Tòa án đã niêm yết công khai Quyết định hoãn phiên tòa số 270/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02/5/2019 tại nơi cư trú của anh H, trụ sở Ủy ban nhân dân phường Lạc Viên và tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền. Tại phiên tòa hôm nay, anh H tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân:

[4] Điều kiện và quá trình kết hôn như chị H, anh H đã trình bày, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị H và anh H chung sống đến năm 2016 thì nảy sinh mâu thuẫn. Giữa hai người bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung; không có sự yêu thương, quan tâm và chăm sóc nhau về tình cảm, độc lập về kinh tế. Chị H và anh H đã sống ly thân từ 5/2017 đến nay. Anh H mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng không có mặt tại Tòa án để tham gia hòa giải dù đã được triệu tập hợp lệ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về việc nuôi con:

[5] Chị H và anh H có một con chung như chị H đã trình bày. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi anh H và chị H sống ly thân, cháu Mai Xuân P ở với mẹ và do cháu còn nhỏ nên giao con chung cho chị H nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của các bên. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về việc chia tài sản chung:

[6] Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[7] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, chị Nguyễn Thị Mai H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mai H được ly hôn anh Mai Xuân H.

2. Về việc nuôi con: Chị Nguyễn Thị Mai H và anh Mai Xuân H có một con chung là Mai Xuân P, sinh ngày 25/7/2013. Giao con chung Mai Xuân P cho chị Nguyễn Thị Mai H trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Mai H không yêu cầu chia tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mai H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 14991 ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: 

Chị Nguyễn Thị Mai H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Mai Xuân H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về