Bản án 41/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 41/2018/HS-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2018/HSST ngày 14/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/QĐXXSTHS ngày 12/10/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình V, sinh ngày: 18/7/2001 tại xã Y, huyện Y, tỉnh N. Nơi cư trú: Thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ V hóa: 6/12; con ông: Nguyễn Đình B,sinh năm 1973 và bà Đinh Thị Y, sinh năm 1974 cùng trú tại Thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N; Gia đình có 02 anh em; bị cáo là thứ hai; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 13/3/2018 đến ngày 16/3/2018 sau đó được áp dụng biện pháp ngăn chặn "Cấm đi khỏi nơi cư trú".

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Đinh Thị Y- Sinh năm: 1974. Địa chỉ: Thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N.

Người bào chữa của bị cáo: Ông Lê Ngọc V- Luật sư V phòng luật sư V - Đoàn luật sư tỉnh N.

Người bị hại: Anh Vũ Minh H- Sinh ngày: 11/3/2002.

Địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh N.

Người đại diện hợp pháp của anh H: Bà Đào Thị N.

Địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh N.

Người làm chứng: 

Anh Ninh Trọng Q - Sinh năm: 1995.

Địa chỉ: Thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N.

Ông Trần Công T - Sinh năm: 1956.

Địa chỉ: Thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N.

Tại phiên tòa có mặt: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa của bị cáo. Vắng mặt:

Người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, những người làm chứng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h30’ ngày 12/3/2018 Nguyễn Đình V đứng tại tỉnh lộ 485 thuộc địa phận xã Y, huyện Y, tỉnh N mục đích đi nhờ xe. Khi thấy một em học sinh tên Vũ Minh H một mình đi xe đạp điện từ xã Y xuống thị trấn L, V xin đi nhờ xe, H đồng ý. Khi H chở V đi được một đoạn thì V hỏi mượn H điện thoại để sử dụng. Do không có tiền chuộc lại chiếc xe đạp đã cắm nên Nguyễn Đình V đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại nhãn hiệu Sony Xperia Z1 màu đen khi Vũ Minh H cho V mượn bán lấy tiền chuộc lại xe đạp. Nguyễn Đình V cầm điện thoại bấm bấm và cho vào túi quần, chờ cơ hội tẩu thoát. Khi H chở V đến khu vực cầu A, xã Y, huyện Y, tỉnh N, Nguyễn Đình V nói H dừng lại cho V xuống đi vệ sinh, H đòi V điện thoại nhưng V không nói gì, cầm điện thoại đi vào đường làng thôn A, xã Y. Vũ Minh H đi xe đạp theo Nguyễn Đình V khoảng 40m thì V dừng lại, H đòi điện thoại nhưng V không trả. V tiếp tục yêu cầu H chở V đi đến nhà một người bạn hoặc đưa cho V 300.000 đồng thì V sẽ trả điện thoại. Do không có tiền nên H tiếp tục chở V đến nhà bạn V. Khi đi đến ngã ba có biển “chùa Roi”, V rướn người lên bóp phanh cho xe dừng lại, rồi nhảy xuống, chạy vào đường làng thôn A, xã Y, huyện Y, tỉnh N. H đi xe đạp đuổi theo, đòi điện thoại nhưng V không trả, tiếp tục chạy ra cánh đồng làng thôn A, xã Y. Do không thể đuổi theo xuống cánh đồng nên H quay lại, không đuổi theo V nữa, đi về. Lúc này có Ninh Trọng Q sinh năm 1995, trú tại thôn A, xã Y chứng kiến sự việc, đuổi theo V, đưa V về UBND xã Y làm việc, thu giữ chiếc điện thoại mà Nguyễn Đình V chiếm đoạt.

Ngày 13/3/2018, cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên đã yêu cầu định giá tải sản là chiếc điện thoại Sony Xperia Z1. Tại bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện Ý Yên kết luận: 01 điện thoại di động Sony Xperia Z1, màu đen có giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Về vật chứng của vụ án, chiếc điện thoại nhãn hiệu Sony Xperia Z1 màu đen là của Vũ Minh H bị Nguyễn Đình V chiếm đoạt, cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên đã trả lại cho Vũ Minh H.

Quá trình điều tra, nghi ngờ Nguyễn Đình V có biểu hiện tâm thần nên cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên đã quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với Nguyễn Đình V.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 236/KLGĐ ngày 31/7/2018 của Viện pháp y tâm thần trung ương kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị cáo Nguyễn Đình V bị chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F70. Tại các thời điểm trên bị cáo hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Bản cáo trạng số 41/CT –VKS ngày 12/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã truy tố: Nguyễn Đình V về tội “ Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác nhận bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định truy tố về tội "Cướp giật tài sản" là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Trong khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Luật sư đề nghị áp dụng các tình tiết quy định tại Điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 91 Bộ luật hình sự.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo nhất trí với lời bào chữa của Luật sư và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng số 41/CT –VKS ngày 12/9/2018 và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình V phạm tội "Cướp giật tài sản"; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm q, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 91 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đình V từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, bị cáo được trừ thời gian bị tạm giữ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận vì hành vi phạm tội của và thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo gửi lời xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ý Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Đình V tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án như: Lời khai của người bị hại, người làm chứng, bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện Ý Yên và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12h30’ ngày 12/3/2018, tại khu vực thôn A,xã Y, huyện Y, tỉnh N, Nguyễn Đình V có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt chiếc điện thoại nhãn hiệu Sony Xperia Z1 mượn của Vũ Minh H trị giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), rồi tẩu thoát thì bị quần chúng nhân dân phát hiện, bắt giữ.

Bị cáo Nguyễn Đình V nhận được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân nhưng vẫn cố tình thực hiện do đó hành vi của bị cáo đã phạm tội "Cướp giật tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã truy tố là đúng phát luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Nguyễn Đình V đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Trong khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên bị cáo sẽ được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đình V là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây hoang mang, lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, chưa có tiền án, tiền sự, là người dưới 18 tuổi, tài sản mà bị cáo đã cướp giật là 01 chiếc điện thoại cũ có giá trị không lớn nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi môi trường xã hội, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật.

[6]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; Điểm q, s khoản 1 Điều 51, Điều 65; Điều 91 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình V phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt Nguyễn Đình V 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/3/2018 đến ngày 16/3/2018).

Giao Nguyễn Đình V cho UBND xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình và điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Đình V phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa của bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:41/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về