Bản án 41/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 41/2018/HSST NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2018/HSST ngày 02 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2018/HSST-QĐ ngày 24 tháng 8 năm 2018; Thông báo hoãn phiên tòa số: 08/TB-TA, ngày 06tháng 9 năm 2018; Thông báo  hoãn phiên tòa số: 09/TB-TA, ngày 11 tháng 9 năm 2018, đối với các bị cáo:

1) Mai Văn T (tự M, N), sinh ngày 23-12-1993, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT: ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú của bị cáo: ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 8/12; con ông Mai Văn T và bà Huỳnh Ngọc H; vợ, con: chưa có; tiền sự: không có; tiền án: ngày 28-9-2016, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 01 năm tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09-5-2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

2) Đặng Văn X (tự D), sinh năm: 1991, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT: ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 6/12; con ông Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị P; vợ: Nguyễn Thị Thu N; con: có 01 người; tiền sự: ngày 21-7-2017, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 18 tháng; tiền án: ngày 31-12-2014, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27-6-2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

Bị hại:

1) Anh Hồ Chí R, sinh năm: 1995; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

2) Anh Trần Văn A, sinh năm: 1997; địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn B, huyệnB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

 3) Anh Hồ Văn L, sinh năm: 1995; địa chỉ: ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

4) Anh Lê Văn M, sinh năm: 1997; địa chỉ: ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ, ngày 08-5-2018, Mai Văn T đi bộ đến quán Ngọc Lan thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh uống cà phê. Tại đây, T thấy xe mô tô biển số 70L1-470.77 của anh Hồ Chí R không người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, T lén lút lấy xe của anh R điều khiển sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được17.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Anh R phát hiện mất xe nên sang Campuchia tìm chuộc  với số tiền 17.500.000 đồng và đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh yêu cầu giải quyết. Qua điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh xác định T trộm xe của anh R nên khởi tố vụ án, bị can, tạm giam T để điều tra làm rõ. Tại Cơ quan điều tra, T thừa nhận hành vi phạm tội và khai nhận một mình thực hiện 02 vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cùng với Đặng Văn X thực hiện 01 vụ Trộm cắp tài sản tại huyện B, tỉnh Tây Ninh, cụ thể như sau:

Vụ án thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ, ngày 08-4-2018, Đặng Văn X điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở T đi chơi game. Khi đến khu vực ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, cả hai thấy anh Trần Văn A say rượu ngủ trên xe mô tô biển số 70C1-207.04. Lúc này, X điều khiển xe mô tô biển số 70C1-207.04, T điều khiển xe của X, cùng đưa anh A đến nhà nghỉ Thuận Kiều thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Sau khi đưa anh A vào phòng ngủ, T và X nảy sinh ý định trộm xe của anh A, T điều khiển xe của X sang Campuchia cầm cố xe của anh A cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 16.000.000 đồng, T và X chia nhau mỗi người được 8.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ án thứ hai: Vào khoảng 15 giờ, ngày 19-4-2018, anh Hồ Văn L điều khiển xe mô tô biển số 70L5-6032 đến quán nước mía không biển hiệu thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh mua nước. Tại đây, anh L gặp T, T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh L bán lấy tiền tiêu xài, nên giả vờ xin đi nhờ xe về nhà mẹ xin tiền, anh L đồng ý. Khi đến khu vực ấp V, xã An, huyện B, tỉnh Tây Ninh, T nói dối anh L cho mượn xe về nhà, anh L đồng ý. Nhận được xe, T điều khiển xe sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 6.200.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ án thứ ba: Vào khoảng 22 giờ, ngày 19-4-2018, T đang uống nước cùng với anh Lê Minh A tại ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Lúc này, anh Lê Văn M (là bạn của T, A) điều khiển xe mô tô biển số: 70F1-321.37 đến uống nước cùng T, A. T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh M, nên hỏi mượn xe đi công việc nhưng anh M không đồng ý. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, T rủ A và anh M đến cửa khẩu Mộc Bài chơi, anh A, anh M đồng ý. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 20-4-2018, khi cả nhóm đến khu vực ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh M, nên nói dối anh M mượn xe đi rước bạn, anh M đồng ý. Nhận được xe, T điều khiển xe sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 4.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Tại các bản kết luận định giá tài sản số: 15/KL-HĐĐG ngày 11-5-2018 và số 20, 21, 22/KL-HĐĐG ngày 24-5-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: xe mô tô biển số 70L1-470.77 có giá trị 55.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-207.04 có giá trị 24.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70L5-6032 có giá trị 4.500.000 đồng; xe mô tô biển số70F1-231.37 có giá trị 7.000.000 đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 áo thun ngắn tay, màu trắng, ghi hiệu NIKE, dài 70 cm, phần tay dài 5 cm, đã qua sử dụng; 01 quần Jean ống dài, màu xanh ghi hiệu FLY, dài 100 cm, đã qua sử dụng.

Về bồi thường thiệt hại: Anh R yêu cầu bồi thường 17.500.000 đồng; anh A yêu cầu bồi thường 24.000.000 đồng; anh L yêu cầu bồi thường 4.500.000 đồng; anh M yêu cầu bồi thường 7.000.000 đồng. T, X chưa bồi thường.

Kê biên tài sản: Mai Văn T và Đặng Văn X không có tài sản, nên không kê biên.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo, vậtchứng bị thu giữ, trách nhiệm bồi  thường thiệt hại về tài sản cho bị hại, như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số: 41/CT-KSĐT ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Mai Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm c khoản 2 Điều 173 và Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; Truy tố: Đặng Văn X về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c khoản 2 Điều 173 và Khoản 1 Điều 174; Điểm s khoản 1Điều 51; Điểm h, g khoản 1 Điều 52  của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt Mai

Văn T từ 03 năm đến 04 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt Mai Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị tổng hợp hình phạt chung cả hai tội đối với bị cáo T: Từ 04 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt Đặng Văn X từ 01 năm 06 thángđến 02 năm tù về tội: “Trộm  cắp tài sản”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun ngắn tay, màu trắng, ghi hiệu NIKE, dài 70 cm, phần tay dài 5 cm, đã qua sử dụng; 01 quần Jean ống dài, màu xanh ghi hiệu FLY, dài 100 cm, đã qua sử dụng.

Về bồi thường thiệt hại: Buộc các bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho người bị hại.

Bị hại - Anh Hồ Chí R có yêu cầu: Đề nghị xét xử bị cáo T theo pháp luật quy định và buộc bị cáo T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền: 17.500.000 đồng;

Bị hại - Anh Trần Văn A có yêu cầu: Đề nghị xét xử các bị cáo T, X theo pháp luật quy định và buộc các bị cáo T và X bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền: 24.000.000 đồng;

Bị hại - Anh Hồ Văn L có yêu cầu: Đề nghị xét xử bị cáo T theo pháp luật quy định và buộc bị cáo T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền: 4.500.000 đồng;

Bị hại - Anh Lê Văn M có yêu cầu: Đề nghị xét xử bị cáo T theo pháp luật quy định và buộc bị cáo T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền: 7.000.000 đồng.

Bị cáo Mai Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị.

Bị cáo Đặng Văn X nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B,Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục  quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện:

Vào khoảng 06 giờ, ngày 08-5-2018, bị cáo Mai Văn T đi bộ đến quán Ngọc Lan thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh uống cà phê. Tại đây, quán chưa mở cửa, bị cáo T leo rào vào quán nằm nghỉ ở trong nhà chòi của quán. Bị cáo T nằm ngủ đến 13 giờ cùng ngày, trong lúc đi vệ sinh thì thấy xe mô tô biển số 70L1-470.77 của anh Hồ Chí R không người trông giữ, nên nảy sinh ý định trộm cắp. Bị cáo T đi đến lấy xe, nhìn thấy chìa khóa cắm sẵn trong ổ khóa, bị cáo lấy xe chạy đi thì bị anh R phát hiện nhưng không đuổi kịp. Bị cáo T điều khiển xe mô tô biển số 70L1-470.77 của anh R sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 17.000.000 đồng, đánh bạc thua hết. Sau khi bị mất tài sản, anh R sang Campuchia tìm kiếm và chuộc lại xe với số tiền: 17.500.000 đồng. Anh R đã trình báo Cơ quan Điều tra công an huyện B để xử lý đối với bị cáo T.

Quá trình điều tra bị cáo T còn khai nhận ba lần phạm tội như sau:

Vụ án thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ, ngày 08-4-2018, bị cáo T được bị cáo Đặng Văn X điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở đi chơi game. Khi đến khu vực ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, cả hai bị cáo thấy anh Trần Văn A say rượu ngủ trên xe mô tô biển số 70C1-207.04. Lúc này, bị cáo X điều khiển xe mô tô biển số 70C1-207.04 chở anh A, bị cáo T điều khiển xe của bị cáo X, cùng đưa anh A đến nhà nghỉ Thuận Kiều thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Sau khi đưa anh A vào phòng ngủ, bị cáo T và bị cáo X nảy sinh ý định trộm xe của anh A, bị cáo T điều khiển xe của bị cáo X sang Campuchia cầm cố xe của anh A cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 16.000.000 đồng, bị cáo T và bị cáo X chia nhau mỗi người được 8.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ án thứ hai: Vào khoảng 15 giờ, ngày 19-4-2018, anh Hồ Văn L điều khiển xe mô tô biển số 70L5-6032 đến quán nước mía không biển hiệu thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh mua nước. Tại đây, anh L gặp bị cáo T, bị cáo T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh L bán lấy tiền tiêu xài, nên giả vờ xin đi nhờ xe về nhà mẹ xin tiền, anh L đồng ý. Khi đến khu vực ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, bị cáo T nói dối anh L cho mượn xe về nhà, anh L đồng ý. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển xe sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 6.200.000 đồng, đánh bạc thua hết.

Vụ án thứ ba: Vào khoảng 22 giờ, ngày 19-4-2018, bị cáo T đang uống nước cùng với anh Lê Minh A tại ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Lúc này, anh Lê Văn M (là bạn của bị cáo T và A) điều khiển xe mô tô biển số: 70F1- 321.37 đến uống nước cùng bị cáo T, A. Bị cáo T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh M, nên hỏi mượn xe đi công việc nhưng anh M không đồng ý. Đếnkhoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, bị cáo T rủ A và anh M đến  cửa khẩu Mộc Bài chơi, anh A, anh M đồng ý. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 20-4-2018, khi cả nhóm đến khu vực ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, bị cáo T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của anh M, nên nói dối anh M mượn xe đi rước bạn, anh M đồng ý. Nhận được xe, bị cáo T điều khiển xe sang Campuchia cầm cố cho người đàn ông Campuchia (không rõ lai lịch) được 4.000.000 đồng, đánh bạc thua hết.

[3] Tại các bản kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 11-5-2018 và số 20, 21, 22/KL-HĐĐG ngày 24-5-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: xe mô tô biển số 70L1-470.77 có giá trị 55.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70C1-207.04 có giá trị 24.000.000 đồng; xe mô tô biển số 70L5-6032 có giá trị 4.500.000 đồng; xe mô tô biển số 70F1-231.37 có giá trị 7.000.000 đồng.

[4] Hành vi của các bị cáo Mai Văn T và Đặng Văn X đã thực hiện phạm tội cụ thể như sau:

[4.1] Bị cáo Mai Văn T đã thực hiện hai lần phạm tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể:

+ Ngày 08-4-2018, bị cáo Mai Văn T cùng bị cáo Đặng Văn X thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Trần Văn A 01 xe mô tô biển số 70C1-207.04, có giá trị 24.000.000 đồng.

+ Ngày 08-5-2018, một mình bị cáo T trộm cắp tài sản của anh Hồ Chí R 01 xe mô tô biển số 70L1-470.77, có giá trị 55.000.000 đồng;

Như vậy, tổng giá trị tài sản của bị cáo T trộm cắp tài sản trị giá là: 79.000.000 đồng;

[4.2] Bị cáo Mai Văn T đã thực hiện hai lần phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” cụ thể:

+ Khoảng 15 giờ, ngày 19-4-2018, một mình bị cáo T lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Hồ Văn L 01 xe mô tô biển số 70L5-6032, có giá trị 4.500.000 đồng;

+ Khoảng 22 giờ, ngày 19-4-2018, một mình bị cáo T lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Lê Văn M 01 xe mô tô biển số 70L5-6032, có giá trị 7.000.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản của bị cáo T lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá là: 11.500.000 đồng.

[4.3] Bị cáo Đặng Văn X cùng với bị cáo Mai Văn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Trần Văn A 01 xe mô tô biển số 70C1-207.04, có giá trị 24.000.000 đồng.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Mai Văn T theo Điểm c khoản 2 Điều 173 và Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; Truy tố bị cáo Đặng Văn X về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo T, X là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân của các bị cáo T, X có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Bị cáo T phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo X phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo T, X đã lợi dụng sơ hở của những người bị hại, lén lút, chiếm đoạt tài sản làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo T còn lợi dụng lòng tin của người bị hại đã có ý thức lừa đảo từ trước khi nhận được tài sản, làm cho người bị hại mất cảnh giác và khi nhận được tài sản của bị hại thì chiếm đoạt tài sản không trả lại. Sử dụng tài sản chiếm đoạt dùng vào mục đích đánh bạc, nhằm thỏa mãn lợi ích cho bản thân. Trong đó, bị cáo T thực hiện riêng lẻ một lần về hành vị trộm cắp tài sản, trị giá 55.000.000 đồng và hai lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị là 11.500.000 đồng. Bị cáo T và bị cáo X đã thực hiện một lần trộm cắp tài sản có trị giá là 24.000.000 đồng. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc mới có tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Trong quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với từng bị cáo:

+ Đối với bị cáo Mai Văn T thấy rằng:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T có một tiền án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện tội phạm, bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên. Những tình tiết tăng nặng này được quy định tại các điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Đối với bị cáo Đặng Văn X thấy rằng:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo X thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Những tình tiếtgiảm nhẹ này được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật  Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo X có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện tội phạm, đã từng bị xử lý về hành vi vi phạm hành chính. Những tình tiết tăng nặng này được quy định tại các điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc A bộ tài sản”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun ngắn tay, màu trắng, ghi hiệu NIKE, dài 70 cm, phần tay dài 5 cm, đã qua sử dụng; 01 quần Jean ống dài, màu xanh ghi hiệu FLY, dài 100 cm, đã qua sử dụng là vật chứng không có giá trị sử dụng có liên quan trong vụ án.

Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Mai Văn T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Hồ Chí R 17.500.000 đồng; anh Hồ Văn L 4.500.000 đồng; anh Lê Văn M 7.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Mai Văn T và bị cáo Đặng Văn X có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Trần Văn A 24.000.000 đồng. Trong đó, bị cáo Mai Văn T phải chịu bồi thường cho anh A 12.000.000 đồng; bị cáo ĐặngVăn X phải chịu bồi thường cho  anh A 12.000.000 đồng.

[7] Về án phí: Các bị cáo Mai Văn T và Đặng Văn X phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền án phí dân sự sơ thẩm theo pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Mai Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản” và tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Đặng Văn X phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; phạt bị cáo Mai Văn T 04 (bốn) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt cả hai tội: Buộc bị cáo Mai Văn T chấp hành hình phạt tù là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09-5-2018.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1Điều 52 của Bộ luật Hình sự; phạt bị  cáo Đặng Văn X 02 (hai) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-6-2018.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun ngắn tay, màu trắng, ghi hiệu NIKE, dài 70 cm, phần tay dài 5 cm, đã qua sử dụng; 01 quần Jean ống dài, màu xanh ghi hiệu FLY, dài 100 cm.

- Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Mai Văn T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Hồ Chí R 17.500.000 (mười bảy triệu năm trăm ngàn) đồng; anh Hồ Văn L 4.500.000 (bốn triệu năm trăm ngàn) đồng; anh Lê Văn M 7.000.000 (bảy triệu)đồng.

Buộc bị cáo Mai Văn T và bị cáo Đặng Văn X có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Trần Văn A 24.000.000 (hai mươi bốn triệu) đồng. Trong đó, bị cáo Mai Văn T phải chịu bồi thường cho anh A 12.000.000 (mười hai triệu) đồng; bị cáo Đặng Văn X phải chịu bồi thường cho anh A12.000.000 (mười hai  triệu) đồng.

Kể từ ngày anh Hồ Chí R, anh Trần Văn A, anh Hồ Văn L, anh Lê Văn M có đơn yêu cầu thi hành án, nếu các bị cáo Mai Văn T, Đặng Văn X không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng các bị cáo Mai Văn T, Đặng Văn X còn phải trả cho anh Hồ Chí R, anh Trần Văn A, anh Hồ Văn L, anh Lê Văn M số tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Mai Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 2.050.000 đồng (hai triệu không trăm năm mươi ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Đặng Văn X phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 600.000 đồng (sáu trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theoBộ luật Tố tụng hình sự quy  định.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về