TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 41/2018/HNGĐ-PT NGÀY 20/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 20/11/2018, tại Hội trường B - Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 47/2018/TLPT-HNGĐ ngày 23/10/2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Do bản án hôn nhân gia đình số 52/2018/HNGĐ-ST ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc bị kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2018/QĐ-PT, ngày 01/11/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Đào Văn B, sinh năm: 1983.
Địa chỉ: xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
- Bị đơn: Chị Lê Thị Thu N, sinh năm: 1988.
Địa chỉ: xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/10/2017 và trong quá giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Đào Xuân B trình bày:
Anh và chị Lê Thị Thu N sống chung và đăng ký kết hôn năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Đây là lần kết hôn đầu tiên của anh chị.
Sau khi kết hôn, anh và chị N sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách hai người không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau về vấn đề tiền bạc. Anh và chị N không còn chung sống với nhau từ 2015 cho đến nay. Nay anh không còn tình cảm với chị N nên yêu cầu ly hôn với chị N.
Về con chung: Anh và chị N có 02 con chung là cháu Đào Gia A, sinh ngày 08/3/2009 và cháu Đào Gia P, sinh ngày 08/3/2009. Hiện nay, cháu P và cháu A đang sinh sống với anh. Khi ly hôn, anh yêu cầu nuôi hai con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Anh B xác định không có. Về nợ chung: Anh B xác định không có.
Về án phí: Anh đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lê Thị Thu N được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án nhưng chị N vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án không thu thập được ý kiến của chị N đối với yêu cầu khởi kiện của anh B.
Tại bản án sơ thẩm số 52/2018/HNGĐ-ST ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc đã áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đào Xuân B.
Anh Đào Xuân B được ly hôn với chị Lê Thị Thu N.
- Về con chung: Giao cháu Đào Gia A, sinh ngày 08/3/2009 và cháu Đào Gia P, sinh ngày 08/3/2009 cho anh Đào Xuân B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lê Thị Thu N.
Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.
- Tài sản chung, nợ chung: Không có.
- Về án phí: Anh Đào Xuân B phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 000275 ngày 03/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành tiền án phí. Anh B đã nộp đủ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 20/7/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có Quyết định kháng nghị số 265/QĐ/KNPT-P9 yêu cầu Tòa án phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và cách tuyên về phần tài sản chung, nợ chung.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung kháng nghị: Về áp dụng pháp luật, anh Đào Xuân B và chị Lê Thị Thu N đăng ký kết hôn năm 2008, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật tại thời điểm hôn nhân được xác lập) là thiếu. Về tài sản chung, nợ chung, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập được ý kiến của bị đơn nhưng trong phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên không có là chưa đủ cơ sở vững chắc. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và cách tuyên phần tài sản chung, nợ chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai trong hạn luật định, đã được gửi cho các đương sự và Tòa án đúng quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung kháng nghị:
Về áp dụng pháp luật: Anh Đào Xuân B và chị Lê Thị Thu N đăng ký kết hôn năm 2008, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật tại thời điểm hôn nhân được xác lập) để giải quyết mà lại áp dụng các quy định khác của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là không đúng.
Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn anh B khai về tài sản chung, nợ chung không có. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị N vắng mặt nên chưa thu thập được ý kiến của chị N về yêu cầu khởi kiện của anh B. Vì vậy, chưa đủ cơ sở để xác định vợ chồng anh B, chị N không có tài sản chung, không có nợ chung. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên về tài sản chung, nợ chung không có là chưa có căn cứ. Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 88/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/7/2018 nhưng quyết định sửa chữa, bổ sung không tuân thủ các quy định tại Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự.
Do vậy, cần cấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và cách tuyên. Cụ thể: Áp dụng Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; về tài sản chung, nợ chung không xem xét, giải quyết.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, không xem xét.
[4] Ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhận định của Hội đồng xét xử và quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 56, 89, 91, 92, 93, 94 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Sửa bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đào Xuân B, anh Đào Xuân B được ly hôn với chị Lê Thị Thu N.
2. Về con chung: Giao cháu Đào Gia A, sinh ngày 08/3/2009 và cháu Đào Gia P, sinh ngày 08/3/2009 cho anh Đào Xuân B trực tiếp nuôi. Tạm thời chị Lê Thị Thu N không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị Lê Thị Thu N được quyền thăm nom con, không ai được cản trở.
Khi cần thiết, chị Lê Thị Thu N và anh Đào Xuân B được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Anh Đào Xuân B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh B đã nộp theo biên lai thu số 000275 ngày 03/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được trừ vào tiền án phí anh Đào Xuân B phải nộp.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 41/2018/HNGĐ-PT ngày 20/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 41/2018/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về