Bản án 1096/2018/HNGĐ-PT ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1096/2018/HNGĐ-PT NGÀY 22/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2018/TLPT-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Do Bản án sơ thẩm số 129/2018/HNGĐ-ST ngày 14/09/2018 của Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5269/2018/QĐ-PT ngày 07 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tường V, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 238 Quốc lộ B, khu phố 1, phường X, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Thị Bạch Y – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông La Chí T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: 2C4/2 ấp 2, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn ông La Chí T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:

* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tường V trình bày:

Bà và ông La Chí T chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh K. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông T không quan tâm đến cuộc sống gia đình, không phụ giúp bà về kinh tế, có lúc còn hành hung và xúc phạm bà. Nay bà yêu cầu đươc ly hôn với ông La Chí T.

Về con chung: Có một con chung tên La Nguyễn Anh T sinh ngày 28/4/2016, bà yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông La Chí T trình bày:

Ông xác nhận việc kết hôn và con chung đúng như bà Nguyễn Thị Tường V trình bày. Cuộc sống vợ chồng ông không có mâu thuẫn gì nhưng bà V có lần mang con ra ngoài sinh sống, ông phải đi tìm về. Từ khoảng tháng 6 năm 2017 bà V tỏ thái độ không tôn trọng ông, thường kiếm chuyện gây gỗ. Đối với yêu cầu xin ly hôn của bà V, ông không đồng ý vì ông còn yêu thương vợ.

Về con chung: Có một con chung tên La Nguyễn Anh T sinh ngày 28/4/2016, nếu ly hôn ông đồng ý giao con chung cho bà V nuôi dưỡng, ông sẽ thỏa thuận cấp dưỡng nuôi con với bà V.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án sơ thẩm số 129/2018/HNGĐ-ST ngày 14/9/2018, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 8, 9, 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Tường V với ông La Chí T.

Bà Nguyễn Thị Tường V được ly hôn với ông La Chí T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 79 Quyển số 01/2014 ngày 30/7/2014 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh K cấp không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao trẻ La Nguyễn Anh T sinh ngày 28/4/2016 cho bà V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Phần cấp dưỡng nuôi con bà V không yêu cầu, khi nào có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết sau.

Ông T có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con cái khi cần thiết có thể xin thay đổi việc nuôi con hoặc góp phần phí tổn nuôi con sau này.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Bà V và ông T xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Do đó Tòa án không đặt ra để giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà V và ông T xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Do đó Tòa án không đặt ra để giải quyết.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 21/9/2018, ông La Chí T nộp đơn kháng cáo bản án.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Bị đơn kháng cáo không đồng ý ly hôn với lý do vợ chồng còn thương yêu nên muốn đoàn tụ gia đình.

- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn xin vắng mặt nhưng có bài luận cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Tường V vì mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý phúc thẩm và xét xử.

Về nội dung: Nhận thấy cuộc sống chung của ông La Chí T và bà Nguyễn Thị Tường V không hạnh phúc, thường xảy ra cải vã, mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện. Ông La Chí T yêu cầu đoàn tụ nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông La Chí T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông La Chí T kháng cáo không đồng ý ly hôn, các nội dung khác không có đương sự nào kháng cáo. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, phạm vi xét xử phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm có kháng cáo, các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không xét.

[2] Về nội dung:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 79 Quyển số 01/2014 ngày 30/7/2014 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh K thì quan hệ giữa ông La Chí T và bà Nguyễn Thị Tường V là hôn nhân hợp pháp, có một con chung tên La Nguyễn Anh T, sinh ngày 28/4/2016.

[3] Xét kháng cáo của ông La Chí T không đồng ý ly hôn, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Trong quá trình chung sống, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh vì bà Nguyễn Thị Tường V cho rằng bà và ông La Chí T không phù hợp tính tình, ông T không quan tâm đến gia đình và xúc phạm bà. Ông La Chí T thì cho rằng bà Nguyễn Thị Tường V có thái độ kỳ lạ, không tôn trọng ông.

Hội đồng xét xử thấy rằng tuy cả hai khai không thống nhất về nguyên nhân xung đột gia đình nhưng đều thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng là có thật, hiện tại cuộc sống chung không hạnh phúc. Và dù đã biết mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ đâu nhưng cả ông T và bà V đều không có biện pháp khắc phục. Qua đó cho thấy vợ chồng không có thiện chí hàn gắn tình cảm, trong cuộc sống chung thiếu sự quan tâm chia sẻ. Mặt khác, như lời ông T khai, mâu thuẫn tuy không trầm trọng nhưng kéo dài và không khắc phục được đã làm ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng, diễn biễn cho thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nhận thấy án sơ thẩm xử cho ly hôn là có cơ sở.

Từ những nhận định trên, nhận thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin đoàn tụ của ông La Chí T, nghĩ cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về án phí phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên đương sự kháng cáo phải nộp án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 228, Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông La Chí T.

2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 129/2018/HNGĐ-ST ngày 14/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tường V.

- Về quan hệ vợ chồng: Bà Nguyễn Thị Tường V được ly hôn với ông La Chí T.

- Về con chung: Giao con chung tên La Nguyễn Anh T sinh ngày 28/4/2016 cho bà Nguyễn Thị Tường V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ghi nhận bà Nguyễn Thị Tường V không yêu cầu ông La Chí T cấp dưỡng nuôi con

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Khi có căn cứ, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, các bên có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

3. Về án phí phúc thẩm:

Ông La Chí T phải nộp 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0006025 ngày 21/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Ông La Chí T đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1096/2018/HNGĐ-PT ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:1096/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về