Bản án 40/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HS, ngày 5 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Ngọc Th (không có tên gọi khác), sinh ngày 03 tháng 10 năm 1990, tại Đ, Quảng Ninh. Nơi thường trú: Thôn L, xã B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Ngọc T, sinh năm: 1960 và bà: Dương Thị Q, sinh năm: 1969; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: chưa; Nhân thân: Ngày 18/9/2009, bị TAND thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đã chấp hành xong bản án. Bị bắt quả tang ngày 23/12/2019, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Anh Phạm Minh Th, sinh năm: 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu 4, phường Hải Hòa, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Ngọc Th nghiện ma túy Heroine từ khoảng tháng 5/2019. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 23/12/2019, Th đến khu vực cổng Trung tâm Y tế thành phố M mục đích tìm mua ma túy để sử dụng, Th vào cửa hàng bán thuốc mua 01 (một) bơm tiêm loại sử dụng một lần và 01 (một) lọ nước cất rồi đi bộ ra cạnh Trung tâm Y tế gặp một người đàn ông đeo khẩu trang đang ngồi trên xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh, không rõ biển kiểm soát, Th hỏi mua ma túy, người này đồng ý, rồi chở Th đến khu vực V thuộc khu 1, phường Tr, thành phố M và dừng xe lại cạnh đường, bảo Th ngồi trên xe máy chờ rồi người đó đi bộ lên phía sau 01 chiếc xe ô tô chở khách loại 45 chỗ, lúc này Th không nhìn thấy anh ta nữa. Khoảng 15 phút sau, anh ta quay ra đưa cho Th 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng bên trong có chứa chất ma túy. Th nhận và đưa cho anh ta 200.000đ rồi người đó bỏ đi đâu không rõ. Sau khi mua, Th cất giấu gói ma túy vào trong túi quần phía trước bên trái rồi đi tìm nơi để sử dụng, thì bị lực lượng Công an phường Tr, thành phố M kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Th 01 (một) gói giấy kích thước khoảng (1,3 x 2,5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng, Th khai nhận là ma túy Heroine. Ngoài ra, còn thu giữ của Th 01 (một) bơm tiêm loại sử dụng một lần VINAHANKOOK (chưa qua sử dụng) và số tiền 200.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Phạm Ngọc Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số 1072/GĐMT ngày 27/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất bột màu trắng ghi thu giữ của Phạm Ngọc Th gửi giám định là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng: 0,109 gam (không phẩy một không chín gam).

Người chứng kiến, anh Phạm Minh Th có lời khai trong quá trình điều tra thể hiện anh được chứng kiến lực lượng công an kiểm tra hành chính và phát hiện, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái mà Phạm Ngọc Th đang mặc có 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng, khi mở gói giấy nhỏ ra anh thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, Th khai nhận là ma túy Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, lực lượng công an còn thu giữ của Th số tiền 200.000đ và 01 (một) bơm tiêm chưa qua sử dụng.

Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người đàn ông đã bán trái phép chất ma túy cho Phạm Ngọc Th.

Tại Bản cáo trạng số 37/CT-VKS-MC, ngày 13/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với bị cáo; sau khi phân tích nội dung vụ án, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị với Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt: bị cáo Phạm Ngọc Th từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 23/12/2019.

*) Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

*) Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 0,04g Heroine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ghi số 1072/GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 bơm tiêm chưa qua sử dụng;

- Trả lại Phạm Ngọc Th: số tiền 200.000đ.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Đánh giá nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người chứng kiến, trên cơ sở kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 23/12/2019, tại khu vực V, thuộc khu Y, phường Tr, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Ngọc Th có hành vi cất giấu trái phép 0,109 gam ma túy loại Heroine để sử dụng cho bản thân, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Các chứng cứ buộc tội của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi đã thực hiện như nội dung Bản cáo trạng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Ngọc Th đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, quan điểm truy tố và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái là có căn cứ pháp lý.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, .... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an ninh xã hội ở địa phương. Đây còn là nguyên nhân gây các loại tội phạm khác, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Mặc dù nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy của bản thân bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, vì vậy cần xử lý nghiêm, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng ngừa chung.

[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn và tại phiên tòa bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/9/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/03/2010, do đó Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết ấn định mức hình phạt nghiêm ở trong khung đã truy tố đối với bị cáo và cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành công dân có ích cho xã hội và gia đình.

[6] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Móng Cái 0,04g ma túy loại Heroine trong niêm phong số 1072/GĐMT theo đúng quy định của pháp luật và 01 bơm tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK còn mới, chưa qua sử dụng đây là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, là công cụ, phương tiện phạm tội, không có giá trị, do đó căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu, tiêu hủy.

- Số tiền 200.000đ, là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, do đó căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo Phạm Ngọc Th nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phạm Ngọc Th, nhưng Th không biết nhân thân, lai lịch của người này nên không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc Th (không có tên gọi khác) Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc Th 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2019.

II. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Tịch thu tiêu hủy: 0,04g ma túy loại Heroine hoàn lại sau giám định được chứa trong 01 (một) phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: “Số: 1072/MT. Mẫu vật hoàn lại kèm theo KLGĐ số 1072/GĐMT ngày 27/12/2019”; và 01 chiếc xi lanh chưa qua sử dụng;

2. Trả lại bị cáo Phạm Ngọc Th: số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số vật chứng trên theo Biên bản giao nhận vật chứng số 62/2020/THA, ngày 20/03/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

III. Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Ngọc Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

IV. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về