Bản án 40/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyn Huy D; sinh năm 1969 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 15 Phan Chu T, khu phố 1, phường A, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn B (chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1942; vợ: Nguyễn Thị Thu H (đã ly hôn) và 02 con: lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2008; nhân thân: Bản án số 27/HSST ngày 29/5/1989 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, Bản án số 210/HSST ngày 11/5/1991 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, Bản án số 333/HSST ngày 16/8/1991 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” và “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 210/HSST ngày 11/5/1991 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 32 tháng tù, Bản án số 543/HSST ngày 18/8/1992 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 18/9/2019. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 45 phút ngày 18/9/2019, tại khu vực soi chiếu ga quốc tế Sân bay Tân Sơn N, an ninh sân bay phát hiện Nguyễn Huy D có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thu giữ trong túi nhỏ phía trước túi quần đang mặc có 01 gói tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,529 gam.

Ti cơ quan điều tra, D thừa nhận tàng trữ gói ma túy trên để sử dụng và khai nhận mua gói ma túy trên từ một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) vào ngày 16/9/2019 với giá 500.000 đồng tại chợ Thủ Đ. Sau đó, D cất giấu trong túi quần đang mặc, đi ra sân bay làm thủ tục về quê thì bị kiểm tra bắt giữ nêu trên.

Đi với đối tượng tên H, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Vt chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, ghi số 1786 (tang vật ma túy còn lại sau giám định).

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A10 màu đen, 01 passport tên Nguyễn Huy D.

Ti bản cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Huy D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án dành cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Huy D, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Huy D đã có hành vi cất giấu 0,5290 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã bị kết án nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, ghi số 1786 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A10 màu xanh đen và 01 passport tên Nguyễn Huy D thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội

 [1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Huy D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2019.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, ghi số 1786 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định).

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A10 màu xanh đen, số imei: 357966107221971, số imei: 3579667107221979 và 01 passport tên Nguyễn Huy D, số C6956223.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 24/PNK ngày 11/02/2020 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về