Bản án 40/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 40/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong các ngày 21, 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn T, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1992 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 1, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L, sinh năm 1967 (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1965; bị cáo có vợ tên Trần Thị H và có 01 con; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 06/9/2018.

2. Hoàng Văn V, sinh ngày 22 tháng 6 năm 1992 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 1, xã Lý T, huyện Yên T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Sơn V, sinh năm 1969 và bà Thái Thị L, sinh năm 1969; bị cáo có vợ tên Phạm Thị L và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 26/10/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc thời hạn với thời hạn 12 tháng (Quyết định số 170/2016/QĐ-TA), chấp hành xong ngày 27/4/2017; bị bắt, tạm giam ngày 06/9/2018.

Bị hại: Bà Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995; nơi cư trú: 143/2A đường A, khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thị L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Xóm 1, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

- Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V; trụ sở: Tầng 2, Tòa nhà Ree Tower, số 9 Đ, Phường 12, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người làm chứng:

- Ông Trần Thanh N, sinh năm 1982; nơi cư trú: 11/1A khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Ông Huỳnh Thanh H, sinh năm 1982; nơi cư trú: 5/1 C, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, bị cáo Hoàng Văn T điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen không gắn biển số chở Hoàng Văn V đi trên đường D6 thuộc khu dân cư Việt Sing, khu phố 4, phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (hướng về khu công nghiệp VSIP) thì cả hai phát hiện bà Lê Thị Ngọc T đang điều khiển xe mô tô biển số 61C1-412.04 đi một mình cùng chiều phía trước, trong túi quần phía trước bên phải có để một điện thoại di động hiệu Samsung Galarxy J7 màu vàng còn dư ra khỏi miệng túi một ít. Các bị cáo T, V nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản nên T điều khiển xe áp sát bên phải xe của bà T còn V ngồi phía sau dùng tay trái giật điện thoại di động hiệu Samsung Galaxe J7 của bà T rồi T tăng ga bỏ chạy. Bị giật điện thoại, bà T tri hô “Cướp! Cướp” đồng thời điều khiển xe mô tô đuổi theo và cùng với bảo vệ khu công nghiệp Vsip bắt giữ cùng tang vật bàn giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An điều tra theo thẩm quyền.

Theo Biên bản định giá và Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An ngày 23/10/2018 xác định: 01 điện thoại di động Samsung Galarxy J7 màu vàng có giá trị 300.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKS-TA ngày 28/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố các bị cáo Hoàng Văn Tùng, Hoàng Văn Vinh về tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả cho chủ sở hữu.

Kiểm sát viên đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T mức án từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn V mức án từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước xe mô tô các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải trả lại cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V số tiền 32.445.989 đồng (trong đó tiền nợ gốc là 22.050.000đồng và tiền lãi 10.395.989 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo Hoàng Văn V thừa nhận số tiền nợ vay mua xe của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V, hiện số tiền nợ gốc là 22.050.000đồng và tiền lãi 10.395.989 đồng như trình bày của Ngân hàng. Bị cáo đồng ý trả số nợ trên cho Ngân hàng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị L trình bày:

Bà Lý là vợ của bị cáo Hoàng Văn V. Đối với xe mô tô hai bánh có số máy E3X9E-443644, số khung RLCUE3240JY161498 bị cáo V sử dụng vào việc phạm tội là tài sản riêng của bị cáo V. Bà L không có quyền và nghĩa vụ liên quan gì đến xe mô tô trên. Số tiền bị cáo Vinh vay của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V thì bà L không biết, không liên quan gì. Ngoài ra, bà L không có bất cứ yêu cầu gì trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Văn T và Hoàng Văn V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau, phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, bị cáo Hoàng Văn T điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen không gắn biển số chở Hoàng Văn V đi trên đường D6 thuộc khu dân cư Việt Sing, khu phố 4, phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện bà Lê Thị Ngọc T đang điều khiển xe mô tô lưu thông cùng chiều phía trước, trong túi quần phía trước bên phải có để một điện thoại di động hiệu Samsung Galarxy J7 màu vàng còn dư ra khỏi miệng túi một ít thì T điều khiển xe chạy áp sát bên trái chiếc xe này để V ngồi sau dùng tay trái giật chiếc điện thoại rồi nhanh chóng tẩu thoát. Hành vi của các bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cướp giật tài sản, các bị cáo sử dụng xe môtô là nguồn nguy hiểm cao độ đang lưu thông trên đường cướp giật tài sản của bị hại cũng đang lưu thông trên đường bằng xe mô tô có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của bị hại và những người khác đang tham gia lưu thông trên đường là phạm tội thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm là tình tiết định khung theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó Bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố các bị cáo về tội Cướp giật tài sản là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức đề nghị hình phạt của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là phù hợp.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác một cách trái pháp luật, là nguy cơ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng an ninh xã hội tại địa phương. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi sử dụng xe mô tô đang lưu thông để cướp giật tài sản của người khác cũng đang lưu thông bằng xe mô tô là rất nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của họ, của chính các bị cáo và những người khác, là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, nên các bị cáo cố ý phạm tội nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo.

Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó bị cáo T là người khởi xướng, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người thực hành, bị cáo V có nhân thân xấu đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc nên vai trò của các bị cáo ngang nhau.

[3] Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi giao trả cho chủ sở hữu; bị cáo T đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo V được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 [5] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt là 01 điện thoại di động Samsung Galarxy J7 màu vàng có giá trị 300.000đồng đã được thu hồi giao trả cho chủ sở hữu, bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo V đồng ý trả số tiền 32.445.989 đồng (trong đó tiền nợ gốc là 22.050.000đồng và tiền lãi 10.395.989 đồng) cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V. Vì số tiền trên bị cáo V vay để mua xe mô tô hai bánh có số máy E3X9E-443644, số khung RLCUE3240JY161498 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Xe mô tô hai bánh có số máy E3X9E-443644, số khung RLCUE3240JY161498, do bị cáo V đứng tên đăng ký và sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. (áp dụng đối với bị cáo Tùng).

- Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. (áp dụng đối với bị cáo Vinh).

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1.Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn T, Hoàng Văn V phạm tội Cướp giật tài sản.

- Xử phạt Hoàng Văn T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2018.

- Xử phạt Hoàng Văn V 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Hoàng Văn V trả số tiền 32.445.989đồng (trong đó tiền nợ gốc là 22.050.000đồng và tiền lãi 10.395.989đồng) cho Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh V.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành cho đến khi thi hành xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành, thì còn phải chịu lãi đối với số tiền nợ gốc 22.050.000đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu YAMAHA, số loại SIRIUS-B6A3, dung tích xy lanh 110,3 cm3, biển số: Không, số máy E3X9E-443644, số khung RLCUE3240JY161498.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/01/2019 giữa Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An).

4. Về án phí:

Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Hoàng Văn V phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.622.299đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:40/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về