Bản án 40/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 40/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-HS ngày 09/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐỖ TRÌNH PHI C; Sinh năm: 1983, tại tỉnh Tiền Giang.

Nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn T, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 6/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

Con ông: Đỗ Trình Phi H (1953)(chết) và bà Trần Thị Kim P (1960) Bị cáo sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Anh Đ; sinh năm: 1985. Con: Có 01 người sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: Không.

Tạm giữ ngày 02/01/2019. Tạm giam ngày 05/01/2019 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Võ Thanh H, sinh năm: 1987 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp LB, xã LA, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Người làm chứng:

1/ Nguyễn Văn M , sinh năm: 1965 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp LT, xã LA, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

2/ Phạm Minh T , sinh năm: 1980 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Số 199/8 TMT, phường 4, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian từ 09 đến 10 giờ ngày 02/01/2019, Đỗ Trình Phi C điện thoại cho Võ Thanh H, sinh năm 1987, đăng ký thường trú: ấp Long Bình, xã Long An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để hỏi mua ma túy với số tiền là 400.000đồng. Khoảng 30 phút sau Hiền điều khiển xe mô tô 02 bánh đến phòng trọ của Cường và giao 02 bịch ma túy cho Cường với giá 400.000đồng nhưng Cường chưa trả tiền. Khi có ma túy Cường lấy ra một ít để vào bịch nhỏ cất trong phòng để sử dụng và hỏi mượn xe mô tô biển số 60B2-145.53 của Hiền nói là đi công chuyện. Khi đi, Cường mang theo 02 bịch ma túy để trong túi áo và điều khiển xe đến nhà của Lê Văn L, sinh năm 1968, thường trú ấp LT, xã LA , huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để sử dụng ma túy, trên đường đi thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật. Sau đó Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Trình Phi C tại ấp Long Hưng, xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thu giữ thêm 01 bịch ma túy để trong chiếc chiếu trong phòng.

Vật chứng thu giữ khi bị bắt quả tang là 02 bịch nilon màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể trong suốt được niêm phong thành 01 gói bên ngoài có chữ ký xác nhận của Đỗ Trình Phi C; 01 xe mô tô 02 bánh màu đen hiệu Attila biển số 60B2-145.53; 01 điện thoại di động mặt trước có chữ Mobell; 01 cái kéo bằng kim loại màu trắng.

Vật chứng thu giữ khi khám xét khẩn cấp là 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể trong suốt để trên chiếu trong phòng, theo lời khai của Đỗ Trình Phi C là ma túy đá, được niêm phong có chữ ký xác nhận bên ngoài của Đỗ Trình Phi C ; 10 bịch nylon màu trắng được hàn kín một đầu, không chứa gì; 01 cái kéo bằng kim loại màu trắng dài khoảng 05cm; 03 đoạn ống nhựa (ống hút) một đầu được cắt nhọn.

Tại bản kết luận giám định số 04/KLGĐ-PC09 ngày 04/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

Gói 1: Mẫu tinh thể trong suốt trong 02 gói nylon màu trắng được hàn kín để trong 01 bì thư được niêm phong có chữ ký ghi họ tên Đỗ Trình Phi C gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,2146 gam loại Methamphetamine.

Gói 2: Mẫu tinh thể trong suốt trong 01 gói nylon màu trắng được hàn kín để trong một bì thư được niêm phong có chữ ký ghi họ tên Đỗ Trình Phi C gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,0912 gam, loại Methamphetamine.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,3085 gam, loại Methaphetamine.

Ti bản cáo trạng số 43/CT-VKSCT ngày 25/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo Đỗ Trình Phi C về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng như Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã thực hiện theo đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng hay quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Xét về tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện một cách đầy đủ và đúng theo qui định của luật tố tụng.

[2] Về nội dung: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đỗ Trình Phi C khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, để có ma túy sử dụng, vào ngày 02/01/2019 bị cáo hỏi mua ma túy của Võ Thanh H với số tiền là 400.000đồng. Sau khi có được ma túy, bị cáo lấy ra một ít để vào bịch nhỏ cất trong phòng để sử dụng, phần ma túy còn lại được để trong 02 bịch bị cáo để trong túi áo và mượn xe mô tô biển số 60B2-145.53 của H đi đến nhà Lê Văn L ở ấp LT, xã LA , huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang để cùng Lệ sử dụng, trên đường đi thì bị phát hiện và bị bắt quả tang. Lượng ma túy thu được trong người bị cáo và nơi ở của bị cáo ngày 02/01/2019 là 0,3085 gam, loại Methamphetamine. Như vậy, hành vi của bị cáo Đỗ Trình Phi C đã có đủ yếu tố để cấu thành tội, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xuất phát từ ý thức xem thường pháp luật, bị cáo Đỗ Trình Phi C là người có đủ năng lực để nhận thức được hành vi của mình và bị cáo cũng ý thức được ma túy là chất độc gây nghiện, người sử dụng ma túy sẽ không kiềm chế được hành vi của mình dễ đi vào con đường phạm tội và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh những căn bệnh nguy hiểm khác cho xã hội. Bản thân vẫn ý thức được điều này nhưng bị cáo vẫn bất chấp và cố tình tìm đến ma túy. Nhằm để thỏa mãn cho những cơn nghiện bị cáo đã mua và sau đó cất giấu trong người cũng như nơi ở để sử dụng. Ngày 02/01/2019, sau khi cất giấu tại phòng trọ một ít để sử dụng còn lại 02 bịch ma túy bị cáo bỏ vào túi áo và điều khiển xe mô tô biển số 60B2-145.53 đến nhà Lê Văn L để sử dụng ma túy, trên đường đi thì bị phát hiện và bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm nó không những gây ảnh hưởng đến tình hình quản lý trật tự ở địa phương mà còn xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước ta đối với các chất ma túy, với hành vi này Hội đồng xét xử cần phải nghiêm trị để răn đe và giáo dục cho bị cáo trở thành người dân lương thiện sau này.

[4] Xét thấy bị cáo có thật thà thú nhận hành vi phạm tội của mình, bản thân không tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, Hội đồng xét xử xem đây là các tình tiết để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Đối với Võ Thanh H qua quá trình điều tra không đủ chứng cứ để chứng minh Hiền có hành vi bán ma túy cho bị cáo C, vì vậy cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Châu Thành không khởi tố hành vi mua bán trái phép chất ma túy đối với Hiền là có căn cứ.

[6] Đối với Lê Văn L hiện không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra công an huyện Châu Thành tách ra để xử lý sau là có căn cứ.

[7] Về vật chứng:

[7.1] Đối với xe mô tô 02 bánh màu đen hiệu Attila biển số 60B2-145.53 do bà Trần Kim Yến Nga, sinh năm 1972 đứng tên sở hửu nhưng bà Nga đã bán xe này và nay cũng không yêu cầu gì. Võ Thanh H đã mua lại xe này, việc bị cáo C sử dụng xe khi trong người đang tàng trữ ma túy, Hiền không biết vì vậy cơ quan điều tra công an huyện Châu Thành xử lý bằng cách trao trả lại cho Võ Thanh Hiền là có căn cứ.

[7.2] Một điện thoại di động mặt trước có ghi chữ mobell IMEL: 510111601261991, có pin là vật bị cáo dùng để liên lạc khi mua ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7.3] Đối với chất ma túy còn lại sau giám định được niêm phong đóng dấu trong 02 gói: gói thứ nhất có ký hiệu vụ số 04/1, gói thứ 2 có ký hiệu vụ số 04/2 cùng ngày 04 tháng 01 năm 2019 bên giao giám định viên Nguyễn Thanh T, bên nhận Nguyễn Ngọc Đ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tiền Giang là vật cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy.

[7.4] Hai cái kéo bằng kim loại màu trắng; 10 bịch nylon màu trắng được hàn kín một đầu không có chứa gì và 03 đoạn ống nhựa một đầu được cắt nhọn, là vật bị cáo dùng để sử dụng ma túy và là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Trình Phi C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1/ Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự .

Phạt bị cáo Đỗ Trình Phi C 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 02/01/2019.

2/ Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động mặt trước có ghi chữ mobell IMEL: 510111601261991, có pin.

Tịch thu tiêu hủy 02 cái kéo bằng kim loại màu trắng; 10 bịch nylon màu trắng được hàn kín một đầu không có chứa gì; 03 đoạn ống nhựa một đầu được cắt nhọn và khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong đóng dấu trong 02 gói: gói thứ nhất có ký hiệu vụ số 04/1, gói thứ 2 có ký hiệu vụ số 04/2 cùng ngày 04 tháng 01 năm 2019 bên giao giám định viên Nguyễn Thanh T, bên nhận Nguyễn Ngọc Đ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tiền Giang.

(Vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 13/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành).

3/ Về án phí hình sự sơ thẩm: căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Buộc bị cáo phải chịu là 200.000đồng.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về