Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29/8/2019, tại Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 207/2019/TLST-HNGĐ ngày 03/6/2019 về: “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/8/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị Như Q, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Viết P, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thôn E, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải chị Đào Thị Như Q trình bày: Chị với anh Nguyễn Viết P chung sống và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 19/12/2003 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc đến năm 2012 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh P ham chơi không chịu khó làm ăn, đánh bài được thua bằng tiền, không quan tâm chăm sóc vợ con và ghen tuông vô cớ nên mâu thuẫn ngày một trầm trọng. Tháng 5/2018, chị đã nộp đơn ly hôn nhưng quá trình giải quyết vụ án anh Phúc hứa sửa chữa, thay đổi cách sống, sẽ chăm sóc vợ con và chăm lo làm ăn nên chị rút đơn khởi kiện nên Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số: 40/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07/5/2018. Tuy nhiên, sau đó anh P không sửa đổi cách sống, nay tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống, do vậy yêu cầu giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn Viết P.

Về con chung: Chị với anh P có 02 con chung, cụ thể cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 10/10/2005 và cháu Nguyễn Bảo Đ, sinh ngày 05/9/2008. Các con chung phát triển bình thường, hiện nay do chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyện vọng, chị nhận trực tiếp nuôi dưỡng các con chung cho đến khi các con đủ 18 tuổi và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị Q vẫn tôn trọng ý kiến của các con về nguyện vọng muốn bố hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

* Quá trình điều tra thu thập tài liệu chứng cứ, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Nguyễn Viết P lẩn tránh, vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai của anh P về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, tại phiên tòa anh P thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, thực tế vợ chồng đã sống ly thân được 02 năm, nhưng vì các con nên anh mong muốn gia đình đoàn tụ.

Về con chung: Anh đồng ý giao 02 con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi và hàng tháng anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đ/01 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

* Tại phiên tòa, cháu Nguyễn Thị Hà V và cháu Nguyễn Bảo Đ trình bày: Các cháu mong muốn được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, vì ở với mẹ các cháu sẽ phát triển tốt về mặt thể chất cũng như tinh thần.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án: Đối với Thẩm phán đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, HĐXX thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục theo qui định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho ly hôn giữa chị Đào Thị Như Q với anh Nguyễn Viết P; Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao các con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi và anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con chung, với mức 2.000.000đ/tháng/01 con chung cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi; Về tài sản chung, không xem xét giải quyết; Về án phí, chị Q, anh P nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật: Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự và loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về trình tự thủ tục tố tụng: Các đương sự có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung vụ án: Chị Đào Thị Như Q và anh Nguyễn Viết P chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn ngày một trầm trọng nên sau khi rút đơn khởi kiện chị Q lại tiếp tục nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với anh P. Quá trình giải quyết vụ án, chị Q cũng khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nên không thể tiếp tục chung sống và thực tế các bên đã sống ly thân từ lâu, do vậy giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Hơn nữa, tại Biên bản giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 16/8/2019 và tại phiên tòa anh P cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân 02 năm nay, tình cảm vợ chồng không còn nhưng vì các con nên anh muốn đoàn tụ. Mặt khác, theo kết quả xác minh tại Hội phụ nữ xã E xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Q với anh P rất trầm trọng, cụ thể đã ly thân từ tháng 5/2017 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh P không chịu khó làm ăn và mỗi lần xảy ra va chạm trong gia đình anh P lại có hành vi bạo lực gia đình. Do vậy, đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn của chị Đào Thị Như Q theo quy định của pháp luật. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định giữa các bên không còn sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau nên làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được và thực tế các bên đã sống ly thân từ lâu nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Nguyện vọng của chị Q nhận nuôi dưỡng các con chung và hiện tại chị Q trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Hơn nữa, tại phiên tòa anh P đồng ý giao 02 con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Mặt khác, các con chung đều có nguyện vọng được ở với mẹ đến năm 18 tuổi. Xét thấy, nguyện vọng của chị Q là phù hợp với thực tế, phù hợp với nguyện vọng của các con chung và ý kiến của anh Nguyễn Viết P nên cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tại phiên tòa anh P nhận cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000đ/tháng/01 con chung, ý kiến của anh P được chị Q chấp nhận.

Do vậy, hàng tháng anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đ/01 con chung, cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Đào Thị Như Q phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Viết P nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dung khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 220; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đào Thị Như Q.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đào Thị Như Q và anh Nguyễn Viết P.

2/ Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Nguyễn Thị Hà V, sinh ngày 10/10/2005 và cháu Nguyễn Bảo Đ, sinh ngày 05/9/2008 cho chị Đào Thị Như Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Hàng tháng anh Nguyễn Viết P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với mức 2.000.000đ/01 con chung cho đến khi cháu Nguyễn Thị Hà V và cháu Nguyễn Bảo Đ đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Viết P có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu Nguyễn Thị Hà V và cháu Nguyễn Bảo Đ mà không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Đào Thị Như Q nộp 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tạm ứng theo biên lai số AA/2019/0000780 ngày 28/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk.

Anh Nguyễn Viết P nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

5/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về