Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường Toà án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 168/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 05 năm 2019, về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXX-ST, ngày 21/10/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1982

HKTT: xóm Xây Đ, xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

Bị đơn: Anh Dương Đình T, sinh năm 1989

HKTT: xóm Xây Đ, xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

(Có mặt chị H, vắng mặt anh T không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

[ Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ xung, các lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị H trình bày: chị và anh Dương Đình T kết hôn năm 2010, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn B, huyện Phổ Yên (nay là phường B, thị xã Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với bố mẹ khoảng 1 năm thì cùng đi làm thuê tại Hà Nội, nhưng thực tế chỉ có một mình chị đi làm, anh T không chịu đi làm và được thời gian ngắn anh T bỏ về, một mình chị và con ở lại Hà Nội làm ăn.

Năm 2015, chị về Phổ Yên làm ăn để cho con đi học, chị làm tại Công ty Sam Sung còn anh T vẫn ở nhà. Một mình chị đi làm nên không lo được kinh tế cho cả nhà, anh T thì không chịu làm ăn, lo lắng cho vợ con nên khoảng 1 năm sau, chị lại đi làm ăn ở Hà Nội cho đến nay. Chị H xác định cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc, hay xảy ra cãi nhau, xô sát. Nguyên nhân cũng chỉ do anh T không chịu làm ăn, chơi bời. Anh T nghiện ma túy từ khi con chung mới được vài tháng tuổi cho đến nay, chị và gia đình khuyên anh đi cai nghiện nhưng anh không nghe. Có thời gian anh T đã đi uống Methadone nhưng chỉ được thời gian ngắn lại bỏ, không uống tiếp.

Vợ chồng ly thân từ năm 2016, anh chị không gặp nhau, có việc cần chỉ liên lạc qua điện thoại. Anh T cũng không quan tâm đến cuộc sống của mẹ con chị. Hiện nay anh T đang chung sống với người phụ nữ khác và đã có con riêng. Chị không có ý kiến gì về việc anh T có quan hệ với người phụ nữ khác do anh chị không còn tình cảm.

Chị H đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Dương Tùng A, sinh ngày 22/09/2011. Từ khi vợ chồng ly thân, con chung do chị nuôi dưỡng, anh T không chăm sóc con và cũng không chu cấp về kinh tế để chị nuôi con. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Tiến cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.

Bị đơn anh Dương Đình T đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không đến Tòa án làm việc do vậy không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn, yêu cầu đề nghị nuôi con chung của chị H đối với anh.

Tại biên bản xác minh ngày 30/10/2019, Ông Dương Đình T - bố đẻ anh Dương Đình T cung cấp: Anh T là con trai ông, kết hôn với chị Đỗ Thị H vào năm 2010, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán địa phương. Sau khi kết hôn, chị H về nhà ông làm dâu, sống tại TDP S, phường B. Cuộc sống vợ chồng bình thường, không có cãi vã, xô sát. Năm 2019, gia đình ông chuyển về xóm Xây Đ, xã T, thị xã Phổ Yên sinh sống.

Khoảng cuối năm 2017, đầu năm 2018 chị H có nói làm ở Phổ Yên lương thấp, muốn về Hà Nội làm ăn. Anh T đồng ý cho chị H đi làm nhưng không muốn xuống Hà Nội ở và làm việc cùng vợ. Từ khi chị H đi làm Hà Nội, vợ chồng ít gặp nhau, gia đình có công việc thì chị H mới về nhà. Đến nay gia đình mới biết chị có đơn xin ly hôn nhưng không biết vì lý do gì.

Về con chung: anh chị có 01 con chung tên Dương Tùng A, sinh năm 2011. Từ nhỏ cháu ở cùng ông bà, khi chị H đi làm ở Hà Nội thì mang theo con đi, hiện nay cháu sống cùng mẹ và đi học ở Hà Nội.

Anh T hiện làm công việc tự do, ai thuê gì làm nấy, không có công việc ổn định, chị H thì làm giò chả ở Hà Nội, công việc, mức thu nhập cụ thể gia đình không nắm được.

Các văn bản của Tòa án gửi cho anh T, gia đình ông và anh T đã nhận được nhưng không thấy anh T nói gì, có lên làm việc cùng Tòa án không gia đình không biết. Về việc chị H xin ly hôn, gia đình cũng động viên nhưng quyết định như thế nào là tùy thuộc vào anh chị, gia đình không có ý kiến gì.

Tại biên bản xác minh ngày 30/10/2019, ông Nguyễn Đức V - Trưởng công an xã T cung cấp: Anh Dương Đình T có đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm Xây Đ, xã T, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên, là thành viên thuộc hộ khẩu gia đình ông Dương Đình T, sinh năm 1962, số hồ sơ hộ khẩu 1835. Hiện anh T vẫn còn hộ khẩu thường trú tại địa phương, là đối tượng nghiện ma túy, thường xuyên đi lang thang nhưng không cắt khẩu tại địa phương.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thị xã Phổ Yên phát biểu quan điểm:

*Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, hội đồng xét xử vụ án, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án:

- Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự  về thẩm quyền thụ lý; Điều 68 về xác định tư cách tham gia tố tụng; Điều 96, 97 BLTTDS về xác minh, thu thập, giao nhận chứng cứ; Điều 195 BLTTDS về việc thụ lý, giao nhận Thông báo thụ lý vụ án cho đương sự; Điều 203 về thời hạn chuẩn bị xét xử; Điều 205, 208, 209, 210, 211 BLTTDS về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng, người có quyền nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đúng quy định của BLTTDS Về quan điểm giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình cho chị Đỗ Thị H được ly hôn với anh Dương Đình T.

+ Về con chung: áp dụng 81,82,83 Luật Hôn nhân gia đình giao con chung Dương Tùng A, sinh ngày 22/09/2011 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T cho đến khi chị H có yêu cầu. Anh T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

+ Về tài sản chung, khoản nợ chung, cho vay chung: Không xem xét giải quyết.

+ Án phí: căn cứ khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: chị H chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Sau khi nghe đại diện VKS phát biểu quan điểm chấp hành pháp luật tố tụng dân sự, quan điểm giải quyết vụ án. HĐXX nhận định:

{1}Về tố tụng:

{1.1} Về thẩm quyền giải quyết: chị Đỗ Thị H và anh Dương Đình T đều có đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm Xây Đ, xã T, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Chị H có đơn ly hôn anh T, căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng Dân sự xác định đây là Tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên.

{1.2} Về sự vắng mặt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh T vắng mặt không có lý do. Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên căn cứ điều 220 Bộ luật TTDS 2015, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa lần 1, anh T vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh T tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Quyết định xét xử vắng mặt đối với bị đơn anh Dương Đình T.

{2} Về nội dung: chị Đỗ Thị H khởi kiện xin ly hôn với với anh Dương Đình T và yêu cầu giải quyết quyền nuôi con chung Dương Tùng A, sinh ngày 22/09/2011, xét yêu cầu khởi kiện của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

{2.1}: Về quan hệ hôn nhân: chị Đỗ Thị H và Anh Dương Đình T tự nguyện kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND thị trấn B (nay là phường B), thị xã Phổ Yên, được công nhận là hợp pháp.

Quá trình chung sống, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Chị H khai nguyên nhân do anh T không chịu khó làm ăn, nghiện ma túy. Chị động viên anh cai nghiện nhưng anh không cai nghiện, anh có điều trị uống Methanon nhưng chỉ được một thời gian lại bỏ, không uống tiếp, vợ chồng thường xảy ra cãi vã, xô sát. Bên cạnh đó, công việc ở Phổ Yên thu nhập thấp, không đủ duy trì cho cuộc sống của chị và con cũng như lo cho cả gia đình nên chị đã về Hà Nội làm, vợ chồng ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Quá trình giải quyết tại Tòa án, anh T không đến Tòa án để thể hiện quan điểm của mình. Quá trình xác minh tại gia đình anh T cho thấy, anh T đã nhận được các văn bản, giấy tờ của Tòa án nhưng cố tình không chấp hành, gây khó khăn cho việc giải quyết ly hôn, kéo dài thời gian giải quyết, ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H và cũng cho thấy anh không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Trên thực tế, vợ chồng anh chị đã ly thân từ năm 2016 đến nay, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa.

Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa anh chị đã thực sự trầm trọng, kéo dài và không có khả năng đoàn tụ, việc duy trì quan hệ hôn nhân không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh T, cho chị Đỗ Thị H được ly hôn với anh Dương Văn T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014.

{2.2} Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Dương Tùng A, sinh ngày 22/09/2011. Từ khi vợ chồng ly thân, con chung do chị H nuôi dưỡng, chị H đề nghị được nuôi dưỡng con chung. Tại đơn đề nghị cháu A thể hiện nguyện vọng được ở cùng với mẹ.

Xét thấy: cháu Dương Tùng A từ khi vợ chồng ly thân đều do chị H chăm sóc, do vậy việc thay đổi môi trường sống, học tập của cháu là không cần thiết, anh T không đến Tòa án để giải quyết do vậy cũng không có căn cứ để xem xét nguyện vọng của anh T. Cần giao con chung Dương Tùng A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là ý chí tự nguyện, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T cho đến khi có đến khi chị H có yêu cầu.

{2.3} Tài sản chung, các khoản nợ chung, cho vay chung: không có, không xem xét.

{2.4} Án phí: chị Đỗ Thị H chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung của chị Đỗ Thị H với anh Dương Đình T.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Đỗ Thị H được ly hôn anh Dương Đình T.

2. Về con chung: giao con chung Dương Tùng A, sinh ngày 22/09/2011 cho chị Đỗ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T cho đến khi có yêu cầu.

Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có thể yêu cầu thay đổi việc nuôi và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về Tài sản chung vợ chồng, các khoản nợ chung, cho vay chung: Không có nên không xem xét.

4. Án phí: Chị Đỗ Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên, biên lai thu số 0004338 ngày 15/5/2019.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị H, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết kết quả xét xử.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về