Bản án 40/2018/HSST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU  

BẢN ÁN 40/2018/HSST NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/HSST ngày 06 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/HSST-QĐ ngày 22 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo: Nguyễn Mai Hoàng H ; Sinh năm: 1978 tại tỉnh B; HKTT: 47 BG, phường 8, TP .V, tỉnh B.Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Hoàng L ; sinh năm 1945; Mẹ: Mai Thị Xuân Đ; sinh năm 1948; Tiền án: Bản án số 168/2015/HSST ngày 11/9/2015 của Tòa án nhân dân TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không; Bị bắt ngày 08/11/2017, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an TP Vũng Tàu. ( bị cáo có mặt tại phiên tòa )

- Bị hại: Mai Thị Xuân Đ ; sinh năm : 1948 ( vắng mặt)

Địa chỉ: 47 BG, phường 8, TP .V, tỉnh B.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Phạm Đức T, sinh năm 1988 ( vắng mặt )

Địa chỉ: 303 TCĐ, phường 3, thành phố V, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Mai Thị Xuân Đ và Nguyễn Mai Hoàng H có quan hệ mẹ con ruột và ở chung một nhà tại số 47 BG, phường 8, TP .V, tỉnh BRVT. Khoảng 08 giờ ngày 04/11/2017 bà Đ đi ra khỏi nhà để đi chùa. Khi đi, bà Đ có để 01 điện thoại di động của mình hiệu OPPO F1S trên đầu giường trong phòng ngủ. Đến khoảng 08 giờ 30 cùng ngày, H thức dậy. Lúc này, H đi đến phòng ngủ của bà Đ lén lút lấy chiếc điện thoại trên. Sau đó, H đem chiếc điện thoại đến tiệm cầm đồ PA ở số 303 TCĐ, phường 3, TP. V cầm lấy 2.200.000 đồng tiêu xài cá nhân. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bà Đ đi chùa về lên phòng lấy điện thoại để gọi thì không thấy điện thoại đâu cả. Đến chiều ngày 04/11/2017, bà Đ dọn dẹp phòng của H thì phát hiện có giấy cầm đồ chiếc điện thoại trên. Bà Đ đã lên trình báo cơ quan công an. Tại cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu, Nguyễn Mai Hoàng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại biên bản định giá tài sản số 253/BB-PTCKH ngày 04/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của TP Vũng Tàu kết luận chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S trị giá 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm ngàn đồng).

Lời khai của Nguyễn Mai Hoàng H phù hợp lời khai bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Mai Hoàng H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Mai Hoàng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và không có ý kiến gì về bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 02-02-2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Mai Hoàng H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điêu 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo

Nguyễn Mai Hoàng H từ 09 đến 12 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo công nhận Viện kiêm sát truy tố đúng người đúng tội và bị cáo chỉ xin HĐXX giảm nhẹ một phần mức án.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định

của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi của bị cáo được xác định như sau: Sáng ngày 04/11/2017 tại số 47 BG, phường 8, thành phố V, Nguyễn Mai Hoàng H lợi dụng sơ hở đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S trị giá 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm ngàn đồng) của bà Mai Thị Xuân Đ. Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc Hội thì hành vi của Nguyễn Mai Hoàng H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản ” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự 2015.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra là nguy hiêm cho xã hội ; xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy: bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức xã hội, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài, nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân. Bị cáo có nhân thân xấu,cụ thể: Năm 1995 bị TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp tài sản”; Năm 1998 bị TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Bị cáo đã có 01 tiền án 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc tình tiết “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

[4.2]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại cho bà Mai Thị Xuân Đ là phù hợp.

[6]. Trách nhiệm dân sự: Đối với anh Phạm Đức T là chủ tiệm cầm đồ PA, do không biết tài sản do H phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý về hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo H tự nguyện bồi thường cho anh T số tiền 2.200.000 đồng nên ghi nhận.

 [6]. Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bô: bị cáo Nguyễn Mai Hoàng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1. Áp dụng khoản 1 Điêu 173 ; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015;

- Xử phạt: Nguyễn Mai Hoàng H 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08 tháng 11 năm 2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo Nguyễn Mai Hoàng H bồi thường cho anh Phạm Đức T số tiền 2.200.000đ ( Hai triệu, hai trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong các khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi trên số tiền gốc với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tại thời điểm thanh toán, tương ứng với số tiền còn phải thi hành án và thời gian chậm trả.

3. Xử lý vật chứng : đã giải quyết xong.

4. Án phí : bị cáo H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đông ) án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng ) án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Riêng những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ( mười lăm ) ngày để từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết công khai để yêu cầu Toà án tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi  nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hànhán, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HSST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:40/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về