Bản án 39/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 04 năm 2021 đối với bị cáo:

Hứa văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 09 tháng 12 năm 1977 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu N20, tổ 1, khối 6, thị trấn C, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Văn C, sinh năm 1948 (đã chết) và bà Nông Thị L, sinh năm 1949; vợ, con: Không có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã từng bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 90/2016/HSST ngày 29/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, bị xử phạt 24 tháng tù giam, được chứng nhận chấp hành xong án phạt tù ngày 13/02/2018, nay đã được xóa án tích. Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/12/2020, tạm giam từ ngày 18/12/2020 cho đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Dương Văn T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 15/12/2020 tại khu vực đường Ngô Thì V, tổ 3, khối 8 phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Hứa văn T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 02 (hai) gói giấy màu trắng có dòng kẻ có cùng kích thước 01 x 02cm bên trong đều có chứa chất bột màu trắng, 04 (bốn) xi lanh, 03 (ba) ống Novocain chưa qua sử dụng, 01 (một) túi nilon màu đen, 01 (một) điện thoại di động Itel, số Imel 352724100584209, màu đen lắp kèm sim số 0335.482.934.

Tại Cơ quan điều tra Hứa văn T khai nhận: Hứa văn T là đối tượng nghiện, sử dụng chất ma tuý Heroin từ năm 2015 đến nay. Khoảng 14 giờ ngày 15/12/2020 Hứa văn T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của nam thanh niên (không rõ lai lịch) gọi đến hẹn gặp nhau tại khu vực ngã ba gần nhà. Khi Hứa văn T ra gặp thì nam thanh niên này nhờ Hứa văn T mua ma tuý Heroine về để sử dụng, Hứa văn T đồng ý và ngồi lên xe mô tô Honda Dream (không rõ biển kiểm soát) do nam thanh niên điều khiển cùng đi đến khu vực Bến xe B, thị trấn C, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Trên đường đi nam thanh niên đưa cho Hứa văn T 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để mua ma tuý. Đến nơi Hứa văn T gặp và mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) với một nam thanh niên (không rõ lai lịch). Người này đưa cho Hứa văn T 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong gồm 02 (hai) gói giấy nhỏ chứa ma tuý Heroine. Hứa văn T cất giấu số ma tuý trên vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc, rồi tiếp tục ngồi lên xe mô tô cùng nam thanh niên đi đến hiệu thuốc mua 04 (bốn) bơm kim tiêm và 03 (ba) lọ nước cất. Khi cả hai đang cùng nhau đi tìm nơi sử dụng, đến khu vực đường Ngô Thì V, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì lực lượng công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Hứa văn T đang tàng trữ trái phép chất ma túy, còn nam thanh niên điều khiển xe mô tô bỏ chạy.

Tại Kết luận giám định số 22/KL-PC09 ngày 16/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma tuý Heroine, có tổng khối lượng 0,235 gam (đã trừ bì).

Cơ quan điều tra đã thu giữ và xác minh đối với số điện thoại 0335.482.934 của Hứa văn T để tiến hành điều tra đối tượng nhờ Hứa văn T mua ma túy. Nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả trả lời của Cơ quan viễn thông. Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng bán ma tuý cho Hứa văn T tại khu vực Bến xe B do không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể nên nên Cơ quan điều tra chưa xác minh, làm rõ được để xử lý.

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 24/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Hứa văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hứa văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hứa văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hứa văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, 04 (bốn) bơm kim tiêm, 03 (ba) ống Novocain chưa qua sử dụng, 01 (một) túi nilon màu đen; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Itel, số Imel 352724100584209, màu đen lắp kèm sim số 0335.482.934 do không liên quan đến hành vi phạm tội; Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 15 giờ ngày 15/12/2020 tại khu vực đường N, tổ 3, khối 8 phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Hứa văn T có hành vi cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc 0,235 gam chất ma túy Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ căn cứ để xác định bị cáo phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã từng bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; ngoài ra, bị cáo có mẹ đẻ là bà Nông Thị L năm 1996 được Văn phòng Chủ tịch nước chứng nhận đã được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về nhân thân, bị cáo là người sử dụng ma túy, năm 2016 đã từng bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nay đã được xóa án tích nên xác định bị cáo có nhân thân không tốt.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo gây ra, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo không có nghề nghiệp, là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông nhờ Hứa văn T mua ma túy và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo do Cơ quan điều tra chưa xác minh được để xử lý các đối tượng trong vụ án theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về việc xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ; 04 (bốn) bơm kim tiêm, 03 (ba) ống Novocain chưa qua sử dụng, 01 (một) túi nilon màu đen đều là công cụ thực hiện hành vi phạm tội vì vậy cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Itel, số Imel 352724100584209, màu đen lắp kèm sim số 0335.482.934 của bị cáo cần trả lại cho bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Hứa văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Hứa văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là chất ma túy; 04 (bốn) bơm kim tiêm (chưa sử dụng), 03 (ba) ống nước cất Novocain (chưa qua sử dụng), 01 (một) túi nilon màu đen.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại nhãn hiệu ITEL màu đen, số Imei 352724100584209 lắp kèm sim 0335.482.934 (máy cũ đã qua sử dụng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Hứa văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về