Bản án 39/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 39/2021/HS-PT NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 23/3/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 316/2020/TLPT- HS ngày 01 tháng 12 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXPT- HS ngày 11 tháng 1 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/HSPT-QĐ ngày 25/01/2021, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án HSST số 140/2020/HSST ngày 05/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Y.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Họ và tên: Tạ Ngọc Tr, sinh năm 1981; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố đẻ: Tạ Ngọc H, sinh năm 1954; Mẹ đẻ: Tống Thị M, sinh năm 1957; Vợ: Đỗ Thị H, sinh năm 1985; Con: Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2006 , nhỏ sinh năm 2014. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/02/2020, thay thế biện pháp ngăn chặn ngày 13/3/2020. Hiện tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Dương Văn G, sinh 1984; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố đẻ: Dương Văn T, sinh năm 1959; Mẹ đẻ:

Nguyễn Thị L, sinh năm 1959; Vợ: Bùi Thị Thanh Ch, sinh năm 1989 (đã ly hôn); Con: Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2009; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/02/2020, thay thế biện pháp ngăn chặn ngày 13/3/2020. Hiện tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Đặng Văn Ph, sinh năm 1982; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn X, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố đẻ: Đặng Văn T (đã chết); Mẹ đẻ: Đoàn Thị G, sinh năm 1946 (đã chết); Vợ: Lê Thị L, sinh năm 1985; Con: Bị cáo có 2 con, con lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2019; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ bẩy; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/02/2020, thay thế biện pháp ngăn chặn ngày 13/3/2020. Hiện tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có 5 bị cáo khác và 5 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Dương Văn H, Tạ Ngọc Tr, Dương Văn Ph, Dương Văn G, Đặng Văn Ph, Nguyễn Văn Y, Hà Văn Kh và Nguyễn Văn Đ bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 13 giờ 35 phút ngày 05/02/2020, tại nhà cấp bốn của Dương Văn H, sinh năm 1974, trú quán: Thôn N, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, Công an huyện Y bắt quả tang một số đối tượng đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh liêng. Bắt giữ được 13 đối tượng đưa về Công an huyện Y điều tra làm rõ gồm: Dương Văn H, Dương Văn Ph, sinh năm 1972, Dương Văn G, sinh năm 1984, Tạ Ngọc Tr, sinh năm 1981, Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1977 đều trú ở cùng thôn với H, Nguyễn Văn Y, sinh năm 1973, trú quán: thôn S, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang, Đặng Văn Ph, sinh năm 1982, trú quán: Thôn X, xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, Hà Văn Kh, sinh năm 1977, trú quán: thôn T, xã Đ, huyện H, tỉnh Bắc Giang (đều là bị can trong vụ án); các đối tượng Dương Ngô L, sinh năm 1972, Nguyễn Văn Th, sinh năm 1964, Nguyễn Văn S, sinh năm 1979, Dương Ngô T, sinh năm 1981 đều trú quán: Thôn N, xã V, huyện Y, Nguyễn Hữu TH, sinh năm 1979, trú quán: thôn M, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (là những người có mặt tại nơi đánh bạc).

Vật chứng thu giữ:

Thu tại bàn bạc: 01 chiếu nhựa màu xanh, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân, và 7.150.000 đồng.

Thu trên người các đối tượng: Dương Văn H: 900.000 đồng, 01 điện thoại Oppo; Dương Văn G: 01 điện thoại Sam sung; 01 ví da màu đen, bên trong có 01 CMND mang tên G và số tiền 13.000.000 đồng; Đặng Văn Ph: 01 điện thoại Oppo; Tạ Ngọc Tr: 01 điện thoại Oppo; Dương Văn Ph: 01 điện thoại Oppo; 01 ví da màu nâu, bên trong có 01 giấy phép lái xe và số tiền 1.600.000 đồng; Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại Oppo; 01 ví da màu nâu, bên trong có 01 giấy phép lái xe và số tiền 1.200.000 đồng; Nguyễn Văn Y: 01 điện thoại Sam Sung, 01 điện thoại Nokia; Nguyễn Văn S: 01 điện thoại Vivo; Dương Ngô T: 01 điện thoại Iphone; 01 ví da màu nâu, bên trong có 01 CMND mang tên Tuân; Nguyễn Văn Th: 01 điện thoại Nokia và số tiền 290.000 đồng; Nguyễn Hữu TH: 01 điện thoại Oppo;

Thu tại sân nhà H: 08 xe mô tô các loại, 01 xe máy điện cụ thể: Dương Văn H: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98B2-476.39, Đặng Văn Ph: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 12B1-06026, Dương Văn G: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 30H4-6908, Nguyễn Hữu TH: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98D1-265.37, Nguyễn Văn Y: 01 xe mô tô Honda Airblade, biển kiểm soát 98B2-241.79, Dương Văn Ph: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98K1-173.35, Hà Văn Kh: 01 xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98D1- 740.74, Dương Ngô T: 01 xe mô tô hiệu Loncin, biển kiểm soát: 72K2-7582, Nguyễn Văn S: 01 xe máy điện.

Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Y đã khám xét khẩn cấp nơi ở H, kết quả: thu giữ tại nền nhà trong buồng ngủ 01 lọ thủy tinh bên ngoài quấn băng dính màu đen, nắp lọ bằng cao su bên trong có 36 viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén có chữ “WY” và 01 viên nén màu xanh một mặt có chữ A, một mặt có chữ Y1, được niêm phong trong phong bì ký hiệu “KX”; thu tại cửa phòng ngủ và nền bếp 02 chai nhựa có nắp được khoan 02 lỗ và có gắn ống hút bằng nhựa.

Ngày 06/02/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Y tiến hành kiểm tra xét nghiệm ma túy trên cơ thể các đối tượng bị bắt giữ, kết quả phát hiện:

Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn Th, Dương Ngô T, Nguyễn Văn Đ, Đặng Văn Ph, Nguyễn Văn Y, Dương Văn H, Tạ Ngọc Tr, Dương Văn G đều dương tính với ma túy.

Ngày 11/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y ra quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định số vật chứng thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “KX”. Trên lọ thủy tinh có dấu vết đường vân hay không nếu có thì thu giữ dấu vết đường vân đó.

Tại kết luận giám định số 160 ngày 21/02/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có kết luận: “Trong 01 (một) phong bì thư có ký hiệu “KX” đã được niêm phong gửi giám định: Trong một lọ thủy tinh bên ngoài quấn băng dính màu đen có nắp đậy màu xám:

- 36 (ba mươi sáu) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của mỗi viên nén đều có chữ “WY” là ma túy, có khối lượng 3,721 gam, loại Methamphetamine.

- 01 viên nén hình tròn màu xanh, trên một mặt của viên nén có chữ “Y1”, mặt còn lại có chữ “A”, không tìm thấy thành phần chất ma túy, có khối lượng 0,097 gam”.

Tại kết luận giám định số 210 ngày 21/02/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có kết luận: “Trên mẫu vật cần giám định phát hiện một số dấu vết đường vân dạng mờ, nhòe, chồng chéo, không đủ yếu tố giám định”.

Quá trình điều tra, các bị cáo và đối tượng liên quan khai nhận:

Khoảng 07 giờ ngày 05/02/2020, Dương Văn H cùng Tạ Ngọc Tr, Dương Văn G, Đặng Văn Ph, Nguyễn Văn Tr, sinh 1982, trú quán Thôn N, xã V, huyện Y ngồi chơi uống nước với nhau tại nhà mình. Sau đó, H cùng Tr, G, Trọng, Đặng Văn Ph cùng rủ nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh liêng, cùng nhau lấy một bộ bài tú lơ khơ có sẵn ở bàn thờ nhà H, ngồi xuống chiếu chải sẵn ở nền nhà để thực hiện hành vi đánh bạc. Khi đánh bạc, H có 700.000 đồng, Tr có 500.000 đồng, G có 1.000.000 đồng, Trọng có 500.000 đồng, Đặng Văn Ph có 500.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc. H cùng mọi người đánh bạc đến khoảng 10 giờ thì không đánh nữa, H đi ăn sáng, còn mọi người vẫn ngồi nói chuyện tại nhà H. Sau đó, Đ đi xuống bếp thấy ở nền bếp có dụng cụ sử dụng ma túy làm bằng hai chai nhựa, ở nắp mỗi chai có gắn ống hút bằng nhựa, ở ghế có mảnh giấy bạc, cùng lúc này Nguyễn Văn Y cũng đến nhà H chơi rồi đi vào bếp. Tại đây, Y, Đ cùng nhau cạo ma túy còn lại bám dính ở tờ giấy bạc rồi cùng nhau sử dụng. Khi Y, Đ, đang sử dụng ma túy thì Tr đi vào bếp xin sử dụng cùng. Trong lúc Y, Tr và Đ đang sử dụng thì hết ma túy, Tr hỏi Đ còn ma túy không thì Đ trả lời là không còn. Tr hỏi H đi đâu thì Đ trả lời là H đi ăn sáng, nên Tr bảo Đ gọi H về mục đích để mua ma túy sử dụng tiếp. Do Đ không có điện thoại nên Y dùng điện thoại của mình gọi cho H bảo về nhà. Khoảng 10 phút sau, H đi ăn sáng về rồi đi vào bếp, lúc này Tr bảo H “còn để cho em bốn cái” (ý nói bảo H bán cho 04 viên ma túy dạng ngựa). Nghe Tr nói vậy, H đi ra cạnh đống củi trong bếp lấy một lọ thủy tinh màu đen, nắp màu xám cầm ở tay và nói “ngựa đầy đây không biết lấy mà chơi”, rồi hỏi Tr lấy mấy con (ý nói mua bao nhiêu viên ma túy), Tr bảo mua 04 viên thì H mở nắp lọ đổ từ trong lọ ra tay Tr 05 viên ma túy tổng hợp, H lấy lại 01 viên cất vào lọ và nói cho Tr biết số tiền mua ma túy hết 400.000 đồng. Nhận được ma túy, Tr nói với H là không còn tiền nên nợ tiền mua ma túy thì H đồng ý và đút lọ thủy tinh đựng ma túy vào người rồi đi ra khỏi bếp. Mua được ma túy, Tr để cả bốn viên ma túy ở mặt ghế trong bếp rồi Y, Đ, Tr tự lấy mỗi người một viên ma túy để tiếp tục sử dụng. Khi Tr, Y, Đ sử dụng ma túy xong nhưng vẫn ngồi trong bếp thì H đi vào bảo Tr “để tao một khói” (ý bảo Tr cho sử dụng ma túy cùng) thì Tr bảo H “cho anh luôn một con”, H bảo không lấy của Tr, lúc này Tr đưa 01 viên ma túy còn lại cho H, H cầm viên ma túy rồi nói sẽ trừ tiền cho Tr một viên, chỉ tính tiền Tr mua ba viên ma túy. Sau đó, H dùng viên ma túy Tr đưa cho sử dụng luôn tại bếp. Sau khi sử dụng ma túy, Tr vay của H số tiền 2.200.000 đồng rồi cùng Y, Đ đi lên nhà ngồi chơi, uống nước cùng với Ph và G. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Tr, Y, Đ, Ph, G cùng rủ nhau đánh liêng ăn tiền, rồi chải chiếu tại buồng ngủ nhà ở của H để tất cả cùng chơi. Khi 05 bị cáo đang đánh bạc thì Kh và Ph đến cùng tham gia đánh bạc. Các anh Lượng, Thu, Sơn, Tuân, TH đến nhà H chơi thấy các bị cáo đánh bạc nên ngồi ngồi xem. Quá trình đánh bạc, Tr sử dụng 2.200.000 đồng, Dương Văn Ph sử dụng 1.200.000 đồng, G sử dụng 1.000.000 đồng, Y sử dụng 1.000.000 đồng, Đ sử dụng 1.000.000 đồng, Dương Văn Ph sử dụng 500.000 đồng, Kh sử dụng 250.000 đồng để đánh bạc. Các bị cáo Y, Đ, Kh, Đặng Văn Ph, G, Dương Văn Ph và Tr đánh bạc đến khoảng 13 giờ 35 phút cùng ngày 05/02/2020 thì bị Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số tiền các bị cáo dùng đánh bạc ở bàn bạc là 7.150.000 đồng cùng toàn bộ vật chứng có liên quan.

Về hình thức đánh bạc, thì trước khi chơi các bị cáo thống nhất mức tiền chơi và hình thức chơi như sau:

Mức tiền chơi: Góp gà mỗi người 50.000 đồng, tiền tố thấp nhất 50.000 đồng trở lên.

Hình thức chơi: Bắt đầu mỗi ván, mỗi người góp 50.000 đồng để vào giữa chiếu gọi là “tiền gà”, sau đó một người lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân, chia bài cho mỗi người 3 quân, khi chia xong, mọi người cầm bài lên xem, nếu ai thấy bài mình to hoặc có số điểm cao có thể ăn được thì đặt thêm tiền (gọi là tiền tố), mức đặt tùy ý nhưng thấp nhất 50.000 đồng. Những người còn lại ai thấy điểm bài của mình cũng cao, có thể ăn được thì đặt tiền theo, ai thấy bài mình thấp không ăn được thì tự úp bài xuống (coi như mất “tiền gà” đã đặt). Sau đó, những người tố với nhau mở bài ra so điểm, bài ai to nhất hoặc có điểm cao nhất thì được ăn toàn bộ số tiền gà và tiền tố. Nếu chỉ có một người tố, những người còn lại không theo thì người tố được ăn toàn bộ tiền gà. Ngoài ra trong ván chơi, ai được liêng đồng hoa thì những người chơi còn lại phải nộp cho người được liêng đồng hoa 50.000 đồng, nếu ai được sáp thì những người chơi còn lại phải nộp cho người được sáp 100.000đồng. Người thắng ván trước được chia bài ván tiếp theo và là người được quyền tố đầu tiên, lần lượt quyền tố theo chiều kim đồng hồ.

Cách tính điểm: Điểm to được tính từ A (át) đến K, Q, J, 10, 9,.....2 là thấp nhất. Nếu bài ai có 3 quân hàng ngang là có "Sáp" (3 quân Át là "sáp" to nhất, nếu không có 3 quân A thì 3 quân K là "sáp" to nhất...). Nếu không ai có "sáp" thì tính đến "liêng" tức là có 3 quân hàng dọc liền nhau (QKA là to nhất; tính dần xuống JQK ....). Nếu không ai có "Sáp" hoặc "Liêng" thì tính đến "Ảnh", tức là 03 quân bài có hình người (Q K K; Q Q K; J J K..) cao nhất là cây K, thấp nhất là cây J. Nếu ván đó không ai có "Sáp", "Liêng", "Ảnh" thì tính điểm bằng cách cộng ba cây bài với nhau, ai được 9 điểm là cao nhất (khi cộng điểm, quy định 10, J, Q, K tính là điểm 0; Át là điểm 1, các quân còn lại tính điểm theo các số ghi ở các quân bài).

Quá trình điều tra, bị cáo Đặng Văn Ph khai tối ngày 04/2/2020 đến nhà H chơi rồi xuống bếp thấy 02 viên ma túy ở ghế không biết là của ai nên tự lấy để sử dụng. Nguyễn Trọng Sơn khai tối ngày 04/02/2020 sử dụng 01 viên ma túy ở bếp nhà H. Nguyễn Văn Th và Dương Ngô T khai chưa ngày 05/02/2020, đến nhà H chơi thấy mọi người đánh bạc trong buồng, ở bàn uống nước có dụng cụ sử dụng ma túy bằng chai nhựa gắn ống hút bằng nhựa của người không quen biết vừa sử dụng ma túy dở nên sử dụng nốt. Khi Ph, Trọng, Sơn, Thu, Tuân sử dụng ma túy tại nhà H thì H không biết.

Bị cáo Dương Văn G khai khoảng 08 giờ ngày 05/02/2020, tại bàn uống nước nhà H, G mua của H 01 viên ma túy tổng hợp với giá 100.000 đồng. Khi G trả tiền thì H lấy từ trong một lọ thủy tinh bên ngoài màu đen 01 viên ma túy đưa cho G, sau đó G ngồi tại bàn sử dụng hết viên ma túy này. Việc mua bán, sử dụng ma túy chỉ có G và H biết.

Bị cáo H khẳng định không cho các bị cáo và đối tượng sử dụng ma túy tại nhà mình, không biết dụng cụ sử dụng ma túy do đâu mà có. Đồng thời H khẳng định ngày 05/02/2020, không bán ma túy cho G, chỉ bán cho Tr 02 viên ma túy sau lấy lại 01 viên để sử dụng, nguồn gốc bán ma túy cho Tr là do H mua từ tối ngày 04/02/2020 của người không quen biết tại thôn Tràng, xã V, huyện Y. Cơ quan cảnh sát điều tra đã cho bị cáo H đối chất với các bị cáo G, Tr, Đ, Y nhưng bị cáo H vẫn không thừa nhận. Do đó không có căn cứ chứng minh H bán ma túy cho G, tuyên nhiên căn cứ vào lời khai của bị cáo H cùng các bị cáo Tr, Y, Đ có đủ căn cứ chứng minh H bán 04 viên ma túy cho Tr vào ngày 05/02/2020.

Với nội dung trên, Bản án HSST số 140/2020/HSST ngày 05/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Y đã tuyên phạt:

1. Căn cứ khoản 1, 5 Điều 251; Điều 38 BLHS 2015.

Xử phạt bị cáo Dương Văn H 02 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt tiền 5.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

- Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58;

Điều 38; Điều 55 BLHS 2015.

Xử phạt bị cáo Dương Văn H 6 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Phạt tiền 10.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

Tổng hợp với hình phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 3 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 05/02/2020.

Phạt tiền từ 15.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

2. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Điều 38 BLHS.

Xử phạt bị cáo Tạ Ngọc Tr 10 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 05/02/2020 đến 13/3/2020).

Phạt tiền 12.000.000đồng sung công quỹ nhà nước.

3. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Điều 38 BLHS.

Xử phạt bị cáo Dương Văn G 9 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 05/02/2020 đến 13/3/2020).

Phạt tiền từ 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000738 ngày 24/3/2020.

4. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Điều 38 BLHS.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Ph 7 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 05/02/2020 đến 13/3/2020).

Phạt tiền 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000734 ngày 24/3/2020.

5.Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 17; Điều 58 Điều 36 BLHS.

Xử phạt bị cáo Hà Văn Kh 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” nhưng được trừ đi những ngày bị cáo bị tạm giữ (1 ngày tạm giữ = 3 ngày cải tạo không giam giữ). Bị cáo Kh còn phải chấp hành 17 tháng 3 ngày cải tạo không giam giữ. Phạt tiền 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000775 ngày 03/4/2020.

Khấu trừ thu nhập của bị cáo 300.000 đồng /01 tháng sung công quỹ nhà nước.

6. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Điều 65 BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Y 9 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt tiền 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000737 ngày 24/3/2020.

7. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 58 Điều 65 BLHS.

Xử phạt bị cáo Dương Văn Ph 8 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách từ 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt tiền 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000736 ngày 24/3/2020.

8. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17; Điều 58 Điều 65 BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 8 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách từ 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài ra án còn tuyên án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo cho các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Án xử xong, ngày 07/10/2020, bị cáo Tạ Ngọc Tr, Đặng Văn Ph kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin H án treo; ngày 08/10/2020, bị cáo Dương Văn G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin H án treo Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo giữa nguY yêu cầu kháng cáo và đưa ra các căn cứ:

- Bị cáo Chung trình bày có bố mẹ già, vợ ốm đau là lao động chính, sau khi án sơ thẩm xử đã tự nguyện nộp 12.4000.000 đồng tiền phạt bạc và án phí đề nghị HĐXX xem xét.

- Bị cáo G trình bày gia đình có bố mẹ già, có bác ruột là liệt sỹ già đình đang thờ cúng, đã tự nguyện nộp 5.2000.000 đồng tiền phạt bạc và án phí đề nghị HĐXX xem xét.

- Bị cáo Ph trình bày gia đình bị cáo khó khăn, con nhỏ bị cáo là lao động chính, sau khi án sơ thẩm xử đã nộp 5.2000.000 đồng tiền phạt bạc và án phí đề nghị HĐXX xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá hành vi phạm tội cùng nhân thân của các bị cáo đã đề nghị HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo, giữ nguY mức hình phạt chuyển cho các bị cáo được H án treo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: đơn kháng cáo của các bị cáo đã được làm trong thời gian kháng cáo và gửi đến TAND huyện Y theo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy:

Khoảng 11 giờ cùng ngày 05/02/2020, Dương Văn H tiếp tục cho 07 bị cáo Tạ Ngọc Tr, Dương Văn G, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn Y, Dương Văn Ph, Đặng Văn Ph, Hà Văn Kh đánh bạc bằng hình thức đánh liêng sát phạt nhau bằng tiền tại buồng ngủ nhà ở của mình. Các bị cáo tham gia đánh bạc tại nhà bị cáo Dương Văn H trong khoảng thời gian từ khoảng 11 giờ đến 13 giờ 35 phút cùng ngày 05/02/2020, thì bị Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang, thu giữ số tiền các con bạc dùng vào việc đánh bạc 7.150.000 đồng (trong đó của bị cáo Tr 2.200.000 đồng, Dương Văn Ph 1.200.000 đồng, G 1.000.000 đồng, Y 1.000.000 đồng, Đ 1.000.000 đồng, Đặng Văn Ph 500.000 đồng, Kh 250.000 đồng) cùng vật chứng có liên quan.

Như vậy hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS, án sơ thẩm tuyên phạt các bị cáo như vậy là đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo:

Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hội đồng xét xử thấy án sơ thẩm đánh giá vai trò mức độ tham gia để xử phạt mức án đối với từng bị cáo là tương xứng, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

Đối với kháng cáo xin H án treo HĐXX phúc thẩm thấy, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo tiếp tục có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi án sơ thẩm xét xử đã tự nguyện nộp tiền phạt bạc và án phí HSST.

Bị cáo Tr nộp 12.400.000 đồng, bị cáo G và bị cáo Ph mỗi bị cáo đã nộp 5.200.000 đồng, bị cáo G có bác ruột là liệt sỹ do vậy cần áp dụng cho các bị cáo H tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS và tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Ngoài ra, ngày 5/2/2020 các bị cáo có hành vi đánh bạc và sử dụng ma túy, đến ngày 26/6/2020 Công an huyện Y ra quyết định xử phạt hành chính là sau hành vi phạm tội, do vậy không coi là có tiền sự.

Xét các bị cáo được H nhiều tình tiết giảm nhẹ, tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQHĐTP ngày 15/5/2018, của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 BLHS, thì các bị cáo đủ điều kiện do vậy cần chấp nhận kháng cáo xin H án treo của các bị cáo, giữ nguY mức hình phạt, chuyển cho các bị cáo được H án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt.

Số tiền phạt bạc và tiền án phí HSST, các bị cáo tự nguyện nộp tại Chi cục THADS huyện Y cần xác nhận đã nộp xong. [4] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thâm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Vì lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận 1 phần kháng cáo của các bị cáo Tạ Ngọc Tr, Đặng Văn Ph và Dương Văn G sửa án sơ thẩm.

[1] Tuyên bố các bị cáo Tạ Ngọc Tr, Dương Văn G, Đặng Văn Ph phạm tội “Đánh bạc”

1. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Tạ Ngọc Tr 10 tháng tù nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách là 20 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/3/2021.

Phạt tiền 12.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ 12.400.000 đồng theo biên lai số AA/2015/0000955 ngày 24/2/2021 tại Chi cục THADS huyện Y, xác nhận bị cáo đã thi hành xong tiền phạt bạc và án phí sơ thẩm.

2. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS.

Xử phạt bị cáo Dương Văn G 9 tháng tù nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/3/2021 Phạt tiền từ 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000738 ngày 24/3/2020 và 5.2000.000 đồng theo Biên lai số AA/2015/0000965 ngày 22/3/2021. Xác nhận bị cáo đã thi hành xong tiền phạt bạc và án phí sơ thẩm.

3. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Điều; 65 BLHS.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn Ph 7 tháng tù nhưng cho H án treo. Thời gian thử thách là 14 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/3/2021.

Phạt tiền 10.000.000đồng sung công quỹ nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 5.200.000 đồng bị cáo đã nộp trước tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên lai thu số AA/2015/0000734 ngày 24/3/2020 và 5.2000.000 đồng theo Biên lai số AA/2015/0000964 ngày 22/3/2021. Xác nhận bị cáo đã thi hành xong tiền phạt bạc và án phí sơ thẩm.

Giao các bị cáo Tạ Ngọc Tr, Dương Văn G, Đặng Văn Ph cho UBND xã V, huyện Y, tỉnh Bắc Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật THAHS, trong thời gian thử thách nếu người được H án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho H án treo.

[2] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:39/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về