TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 695/2017/HSPT NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Hôm nay, ngày 28 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 650/HSPT ngày 07/11/2017 đối với bị cáo Nguyễn Đức T. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 320/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Đức T; giới tính: Nam; sinh năm: 1980, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: đường G, khu phố H, phường T, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Tử L và bà Nguyễn Thị M; có vợ có 3 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền sự, tiền án: không có.
Bị bắt tạm giam từ ngày 15/4/2016 đến ngày 22/4/2016 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
NHẬN THẤY
Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 ngày 15/4/2016, Nguyễn Đức T đứng ra tổ chức cho Nguyễn Thị Bích L, Đào Thị H, Trần Thị Thanh H và Đặng Thị T đến nhà không số, hẻm S, đường B, khu phố H, phường T, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đánh bài tứ sắc ăn tiền, để Nguyễn Đức T thu tiền xâu. Khi đánh bạc Nguyễn Thị Bích L đem theo số tiền 2.000.000 đồng dùng đánh bạc, Đào Thị H đem theo 3.200.000 đồng dùng đánh bạc, Trần Thị Thanh H đem theo số tiền1.500.000 đồng dùng đánh bạc. Hình thức đánh là đặt chến, mỗi chến 04 người chơi, mỗi người đặt ra 1.500.000 đồng đánh bạc cho đến khi hết tiền trong chến thì chơi tiếp chến mới. Mỗi chến, Nguyễn Đức T thu tiền xâu là 200.000 đồng. Nguyễn Thị Bích L, Đào Thị H, Trần Thị Thanh H và Đặng Thị T đánh đến 15giờ cùng ngày thì bị Công an phường T, quận Thủ Đức phát hiện bắt quả tang, riêng Đặng Thị T chạy thoát. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 6.100.000 đồng và thu trên người của Nguyễn Thị Bích L số tiền 210.000 đồng, Đào Thị H số tiền 200.000 đồng, Trần Thị Thanh H số tiền 400.000 đồng là tiền dùng đánh bạc, thu giữ của Nguyễn Đức T số tiền 200.000 đồng là tiền thu tiền xâu.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Đức T, Nguyễn Thị Bích L, Đào Thị H, Trần Thị Thanh H và Đặng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Tang vật thu giữ gồm:
- 01 tấm nylon màu xanh, dùng để ngồi đánh bạc;
- 01 bộ bài tứ sắc có 112 lá bài, 01 hộ bài tứ sắc có 09 bộ bài tứ sắc;
- Số tiền 7.110.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 320/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội: “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ đi thời gian đã tạm giam trước từ ngày 15/4/2016 đến ngày 22/4/2016.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên phạt các bị cáo khác, nhưng các bị cáo khác không kháng cáo.
Ngày 12/10/2017, bị cáo bị cáo Nguyễn Đức T kháng cáo xin được hưởng ántreo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Thành vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáonhư đã nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đề nghị:
Bị cáo Nguyễn Đức T đã bị Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 248 của Bộ luật hình sự để xử bị cáo về tội “Đánh bạc”.
Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo Thành kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Nhận thấy: Bị cáo Nguyễn Đức T có hành vi tổ chức sòng bạc để thu tiền xâu của nhiều người đánh bạc để hưởng lợi bất chính.Sòng bạc do bị cáo tổ chức để thu tiền xâu khi bị bắt quả tang có nhiều người tham gia gồm có Nguyễn Thị Bích L, Đào Thị H, Trần Thị Thanh H và Đặng Thị T.
Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 7.110.000 đồng.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Thành 06 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật.
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Thành.Mức hình phạt 06 tháng tù mà tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng.
Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết nào mới, để có thể xem xét cho bị cáo hưởng án treo.
Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 2 khoản 3 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội: “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 06 (sáu) tháng tù, như Bản án sơ thẩm đã tuyên. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức T không tự bào chữa mà chỉ xin được hưởng án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo,
XÉT THẤY
Bị cáo Nguyễn Đức T có hành vi tổ chức sòng bạc, được thua bằng tiền, thu tiền xâu để hưởng lợi bất chính. Khi bị bắt quả tang, có 4 người tham gia đánh bạc, số tiền dùng để đánh bạc thu giữ được là 7.110.000 đồng.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T như vậy đã phạm tội “Đánh bạc”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 12/10/2017 bị cáo Thành kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:
Bị cáo Nguyễn Đức T đã có hành vi tổ chức xòng bạc có nhiều người tham gia, được thua bằng tiền, có tính sát phạt cao để bị cáo thu tiền xâu. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 06 tháng tù.
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng.
Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết nào mới để có thể xem xét giảm nhẹ hơn nữa hình phạt cho bị cáo hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Từ các nhận định trên,
Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội: “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ đi thời gian đã tạm giam trước từ ngày 15/4/2016 đến ngày 22/4/2016.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 695/2017/HSPT ngày 28/12/2017 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 695/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về