Bản án 39/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN DÂN NHÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2019/TLST-HS ngày 25/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐXXST-HS ngày 15/10/2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn H (tên gọi khác: không) - Sinh ngày 17 tháng 11 năm 1975 tại huyên B, tỉnh Bắc Kạn; nơi đăng ky hô khâu th ường trú : Thôn C, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; chỗ ở hiện nay: Tổ 7, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp : Làm ruộng ; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C và bà Đồng Thị D; vơ là Dương Thị H; con: Có một con; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏ i nơi cư tru” - Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lý Văn Trung - Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

o hồi 14 giờ 50 phút ngày 18/4/2019, tại khu vự thôn N, xã Q, huyện B, tổ công tác của Công an huyện B bắt quả tang Hoàng Văn H (sinh năm 1975; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nơi ở: Tổ 7, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn) có hành vi tàng trữ chất ma tuy. Tô công tac thu giư tai tui áo ngực bên trái mà H đang mặc 01 gói nhỏ được gói băng giấy có một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, lớp tiếp theo được gói bằng giấy màu trắng, bên trong có chứa chất màu trắng dạng bột. Tô công tac tiên hanh thư phản ứng nhanh đôi vơi chât bôt trăng trên cho phản ứng trùng với phản ứng đặc trưng của chất ma tuy (Heroine). Tổ công tác gói lại như lúc phát hiên va niêm phong trong phong bi ky hiêu “H ”. Ngoài ra , tổ công tác còn thu tại túi quần đằng trước bên phải H đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu WING màu đen, viền trắng, đã qua sử dụng. Đến 20 giờ cùng ngày, Công an huyên B tiên hanh cân xac đinh khôi lương chât bôt mau trăn g trong phòng bì “H” co khôi lương la 0,183g và niêm phong vào trong phong bi ky hiêu “ H1” gưi cơ quan giam đinh.

Tại Bản kết luận giám định số 72/KTHS-MT ngày 25/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu “H1” gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,183 g (không phẩy một tám ba gam)”.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, H khai nhận: Khoảng 13 giơ 00 phút ngày 18/4/2019, H đón xe khách từ thành phố B đi vào huyện C, tỉnh Bắc Kạn với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực xã P, huyện C, H xuống xe và găp một ngươi đan ông khoang 50 tuôi nhưng không biêt họ tên , đia chỉ. H mua vơi ngươi đan ông nay 01 gói m a tuy vơi gia 500.000đ. Sau khi mua đươc ma tuy , H bắt xe khách về Bắc Kạn. Khi đến khu vực thôn N, xã Q, huyện B, H xuống xe đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị bắt giữ cùng toàn bộ tang vật.

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS-BT ngày 23/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện B để xét xử đối với Hoàng Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

- Tuyên bố bị cáo phạm tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền : Do bi cao thuộc diện hộ cận nghèo, thu nhập không ổn định, không co tai san riêng nên không đề nghị áp dụng.

- Về vật chứng, biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điêu 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tich thu tiêu huỷ 01 phong bì ký hiệu “T72” bên trong có phong bì ký hiệu “H1” có chưa 0,160g chất ma tuy; 01 phong bi niêm phong ky hiêu “H2” bên trong chưa giây goi va phong bì n iêm phong ban đầu. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu WING màu đen, viền trắng, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì ký hiệu “ĐT1”.

- Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi và xin được hưởng án treo. Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh Viện kiểm sát truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 47 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 xử bị cáo mức hình phạt thấp nhất, không áp dụng hình phạt bổ sung, trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu WING, miễn án phí cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nôi d ung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1]. Về hành vi và quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa. Do đó, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định: Do bản thân H sư dung ma t úy nên vào hồi 14 giờ 50 phút ngày 18/4/2019, tại khu vưc thôn N, xã Q, huyên B, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Văn H đa co hanh vi tang trư trai phep 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) có khối lượng 0,183g (không phay một tám ba gam) vơi muc đich đê sư dung cho ban thân.

Hành vi của bị cáo được thực hiện khi bị cáo đã có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân gia tăng tệ nạn nghiện ma túy tại địa phương. Do đó, bản cáo trạng sô 39/CT-VKSBT ngay 23/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có nội dung:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…………………………………………………………………………………….

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………………………………………………………………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hôi cai; có ông nội là Hoàng Văn B được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì nên đươc hương các tình tiết giảm nhẹ quy đinh tai điêm s khoan 1, khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo gây ra đối với xã hội, xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần buộc bị cáo đi cải tạo tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính giáo dục cho bị cáo và tính răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Vì vậy, mức hình phạt do Kiểm sát viên, người bào chữa đề nghị là phù hợp, cần chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xét thấy bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, không co thu nhâp ổn định , không có tài sản riêng nên không có khả năng thi hành. Vì vây, HĐXX không áp dụng.

[4]. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho H tại khu vực xã P, huyện C theo lời khai của H nhưng do H không biết tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có cơ sở để điều tra xác minh.

[5]. Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu WING màu đen, viền màu trắng, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì ký hiệu “ĐT1” không có liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần trả lại cho bị cáo.

- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “T 72” do cơ quan giám định hoàn trả bên trong có phong bì ký hiệu “H1” chứa 0,160g chất ma túy; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “H 2” bên trong chứa giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu cần tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí nên HĐXX chấp nhận miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi châp hanh an.

- Về vật chứng, biên pháp tư pháp : Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu WING màu đen, viền trắng, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì ký hiệu “ĐT1”.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “T 72” do cơ quan giám định hoàn trả bên trong có phong bì ký hiệu “H1” chứa 0,160g chất ma túy; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “H 2” bên trong chứa giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 26/9/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

- Về án phí: Căn cứ Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo Hoàng Văn H được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về