Bản án 39/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2019/HS-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại nhà văn hóa thôn An Thái, thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn K, sinh năm 1973; nơi sinh, nơi đăng ký HKTT và trú tại: Thôn S, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Trần Thị N (Đều đã chết); gia đình bị cáo có 8 anh em, bị cáo là con thứ tám, Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1974 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất, sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ tại nhà tạm giữ Công an huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương từ ngày 03/4/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi từ ngày 05/4/2019 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng:

- Anh Đồng Văn C, sinh năm 1986

- Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1961

Đều có địa chỉ: Khu T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.

- Anh Lê Văn T, sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương.

- Anh Trần Văn Q, sinh năm 1971

- Anh Trần Minh H, sinh năm 1999

Đều có địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương.

( Đều vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 30 phút, ngày 03/4/2019, Trần Văn K điều khiển xe máy biển số 34AC-002.89 (Là xe của ông Trần Văn Q, sinh năm 1971, trú tại Thôn S, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương là anh em ruột của K) đi đến cây xăng Long Xuyên, thuộc xã Long Xuyên, huyện Kinh Môn thì gặp Lê Văn T, sinh năm 1989 trú tại: Thôn D, xã L. T nhờ K trở T đến xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng mua ma túy về cùng sử dụng (Theo K khai). K đồng ý và chở T đến ga D, thuộc xã Đ, T chỉ K rẽ sang bên trái đường, đi tiếp 500m thì T xuống xe đi bộ vào trong, khoảng 05 phút sau T đi ra và bảo đã mua được ma túy và bảo K trở về, trên đường về T đưa cho K 02 gói giấy chứa ma túy loại Heroine, K cầm và cất vào trong túi quần bên trái đang mặc, sau đó T bảo K trở T đến nhà nghỉ B thuộc huyện K, tỉnh hải Dương để T vào tìm một người bạn, Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, khi K đang ngồi trên xe máy biển số 34AC-002.89 dựng ở K vực đường xe thô sơ Quốc lộ 5A thuộc phố G (Trước cửa nhà nghỉ B) thì bị Tổ công tác thuộc Công an huyện Kim Thành kết hợp với Công an Thị trấn P, kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái K đang mặc 02 gói giấy bên trong đều chứa chất ma túy Heroine.

Tại bản Kết luận giám định số 173/KLGĐ-PC09 ngày 05/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Trần Văn K gửi đến giám định có khối lượng 0,121 gam là ma túy, loại Heroine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 0,078 gam, là ma túy loại Heroine, được niêm phong trong bì thư số 173/KLGĐ-PC09.

Tại Bản cáo trạng số37/CT-VKSKT ngày 09/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố Trần Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành truy tố bị cáo về tội phạm trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn K từ 13 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 03/4/2019; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Hình sự, tịch thu cho tiêu hủy số m túy hoàn lại sau giám định trong phong bì thư số 173/KLGĐ-PC09 được niêm phong dấu của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Hải Dương; Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Buộc bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000đồng án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Điều tra Công an huyện Kim Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 03/4/2019, tại Phố G, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương, Trần Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,121 gam, loại ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng trái phép thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[ 3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được chất ma túy rất độc hại, cấm tàng trữ trái phép, nhưng vì mục đích để sử dụng thỏa mãn cho nhu cầu bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[ 4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.

[ 5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 của Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì thấy trước khi bị cáo phạm tội, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo cũng là phù hợp.

[ 6] Về vật chứng: Gồm có 01 phong bì niêm phong số 173/KLGĐ-PC09 được niêm phong dấu của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Hải Dương bên trong chứa ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định, đây là vật chứng của vụ án, là vật cấm lưu hành nên cần phải tịch thu cho tiêu hủy.

Trong vụ án này đối với Lê Văn T là người K khai rủ K đi mua ma túy, quá trình điều tra T không thừa nhận hành vi trên, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra – Cộng an huyện Kim Thành không đủ căn cứ để điều tra.

[ 7 ] Về án phí: Bị cáo bị kết luận có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Văn K 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 03/4/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy số ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 173/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Hải Dương (Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/7/2019)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2019/HS-ST ngày 07/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về