Bản án 39/2018/HSST ngày 22/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 39/2018/HSST NGÀY 22/05/2018 VỀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Đức Anh T; sinh ngày: 25/10/1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: đường A, phường Đ, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Thành L và bà: Bùi Thị Tuyết S; có vợ: Phan Ngọc M (đang mang thai 29 tuần); tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: (ngày 19/11/2015 bị Tòa án án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 254/2015/HSST); bị bắt giữ ngày: 08/01/2018, tạm giữ ngày: 08/01/2018, bị tạm giam ngày: 10/01/2018.

(Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 ngày 08/01/2018, tại trước hẻm số 31 đường Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ tuần tra Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 10 tiến hành kiểm tra hành chính đối với Lê Đức Anh T, thu giữ: 01 bao thuốc lá hiệu Jet trong túi áo khoác bên phải của T (bên trong có 01 quẹt gas có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu), 01 chiếc xe môtô biển số 59C2-217.09, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo (có số thuê bao 01265285273). Vụ việc được Công an Phường 12, Quận 10 lập hồ sơ chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 281/KLGĐ-H ngày 17/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 gói niêm phong bên ngoài có dấu vân tay chữ ký ghi tên Lê Đức Anh T, chữ ký ghi tên người chứng kiến Lê Huy Hiệp và hình dấu Công an Phường 12, Quận 10 gửi đến giám định, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4877g, loại Methamphetamine.

Quá trình điều  tra, T khai nhận như sau: khoảng 11 giờ 30 ngày 08/01/2018, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một đối tượng nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) có số thuê bao 0902860773 gọi vào điện thoại di động của T để hỏi mua 500.000 đồng ma túy tổng hợp; T đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy tại đường Hoàng Dư Khương, Quận 10; T bỏ ma túy vào quẹt gas, rồi bỏ quẹt gas vào trong bao thuốc lá hiệu Jet. Khi T trước hẻm số 31 Hoàng Dư Khương, Phường 12, Quận 10 thì bị bắt như trên. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, T mua của một đối tượng tên L (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào ngày 25/12/2017 tại khu vực đường Tên Lửa, quận Bình Tân với giá 400.000 đồng và đây là lần đầu tiên mua bán ma túy.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Lê Đức Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Riêng đối tượng tên L, nam thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, khi nào bắt được xử lý sau.

Riêng đối với 01 xe môtô biển số 59C2-217.09, qua xác minh được biết người đứng tên chủ sở hữu hợp pháp là Lê Đức Anh T; T dùng chiếc xe trên để đi bán ma túy; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Tại Bản Cáo trạng số 27/CT-VKSNDQ10 ngày 20 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Lê Đức Anh T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo Lê Đức Anh T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải); đã đề nghị áp dụng khoản 1, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, xử phạt bị cáo Lê Đức Anh T: từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù, phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: không có gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Đức Anh T và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

 2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận tội của bị cáo, đối chiếu với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: bị cáo Lê Đức Anh T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”; nhưng bị cáo đã đi ngược lại mục tiêu chung trên, cụ thể: bị cáo đã cất giữ trái phép: 0,4877g loại Methamphetamine, nhằm mục đích để bán lại cho người khác, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn, nên bị cáo bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; ngoài ra bị cáo còn có quá trình nhân thân không tốt, cụ thể: ngày 19/11/2015 bị Tòa án án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, đã được xóa án tích theo quy định tại Điều 107 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tu dưỡng bản thân, mà tiếp tục phạm tội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương; ngoài ra áp dụng khoản 5 Điều 251, phạt bổ sung bị cáo một số tiền để sung quỹ Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo bị bệnh hen suyển và vợ đang mang thai; vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Đối với: 01 gói được niêm phong (bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Lê Đức Anh T, chữ ký ghi tên người chứng kiến Lê Duy Hiệp và hình dấu Công an Phường 12, Quận 10), là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với:01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo (số thuê bao 01265285273), 01 chiếc xe mô tô biển số 59C2-21709 (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: LUVIAS, màu sơn: Đen, dung tích xi lanh: 124 cm3, số khung: RLCL44S10BY063183, số máy: 44S1-063187); là phương tiện dùng vào việc mua bán trái phép chất ma túy; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET, 01 chiếc bật lửa màu trắng có in chữ APPLE, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Lê Đức Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Đức Anh T;

Xử phạt bị cáo Lê Đức Anh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2018. Phạt bổ sung bị cáo T 5.000.000 (Năm triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói được niêm phong (bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Lê Đức Anh T, chữ ký ghi tên người chứng kiến Lê Duy Hiệp và hình dấu Công an Phường 12, Quận 10).

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET, 01 chiếc bật lửa màu trắng có in chữ APPLE.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo (số thuê bao 01265285273), 01 chiếc xe mô tô biển số 59C2-21709 (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: LUVIAS, màu sơn: Đen, dung tích xi lanh: 124 cm3, số khung: RLCL44S10BY063183, số máy: 44S1-063187).

(Tình trạng vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/4/2018 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo T chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2018/HSST ngày 22/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:39/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về