Bản án 39/2017/DS-ST ngày 22/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THẠNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 39/2017/DS-ST NGÀY 22/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 107/2017/TLST-DS ngày 07 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2017/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2017/QĐST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Dương Thị C, sinh năm 1929 (có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: bà Hồ Thị T, sinh năm 1966; địa chỉ: ấp 9B, xã M, huyện C, tỉnh T (theo giấy ủy quyền ngày 22/8/2017 vào sổ chứng thực số 55 quyển số 1-SCT/CK, ĐC của UBND xã Tân Hòa) (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Lê Trung T–Trợ giúp viên pháp lý nhà nước tỉnh Long An (có mặt)

- Bị đơn: Bà Hồ Thị K, sinh năm 1952 (có mặt) Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/5/2017, nguyên đơn bà Dương Thị C trình bày: Bà có cho con gái của bà là Hồ Thị K và con rể là Lê Văn T vay 2.000.000đ (Hai triệu đồng) và 03 chỉ vàng 24k. Thời gian vay bà không nhớ do không có làm giấy tờ. Hiện nay bà đã già yếu, thường xuyên bệnh nên cần tiền điều trị bệnh. Bà đã yêu cầu bà K trả tiền, vàng lại cho bà nhưng bà K không trả. Bà khởi kiện yêu cầu bà Hồ Thị Kvà ông Lê Văn T trả số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) và 03 chỉ vàng 24k để lấy tiền chữa bệnh.

Tại phiên hòa giải ngày 17/7/2017, bà Dương Thị C có thay đổi nội dung về yêu cầu khởi kiện, bà chỉ yêu cầu một mình bà Hồ Thị K trả cho bà số tiền và vàng đã vay trên do số vàng và tiền này không liên quan đến ông Lê Văn T. Bà C không yêu cầu ông T cùng có nghĩa vụ liên đới với bà Hồ Thị K trả cho bà số vàng và tiền nữa.

Bị đơn Hồ Thị Ktrình bày: bà thừa nhận có thiếu bà Dương Thị C là mẹ của bà K số vàng là 03 chỉ vàng 24k, số vàng này không có liên quan gì đến chồng của bà là ông Lê Văn T. Hiện nay bà K đồng ý trả 03 chỉ vàng 24k cho bà C. Về thời gian trả, bà xin trả dần mỗi vụ lúa trả 0,5 chỉ vàng 24K do không có khả năng trả 01 lần.

Về số tiền, bà K không thừa nhận có vay số tiền 2.000.000đ của bà Dương Thị C nên không thống nhất trả số tiền 2.000.000đ theo yêu cầu của bà C.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu bà Hồ Thị K trả 03 (ba) chỉ vàng 24k và 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Bị đơn chỉ đồng ý trả 03 (ba) chỉ vàng 24k và xin trả vào vụ Đông Xuân năm 2018; không đồng ý trả 2.000.000đ (Hai triệu đồng) do không có vay.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Dương Thị C trình bày: Về số vàng, bà Dương Thị C hiện nay đã già yếu, thường xuyên đau bệnh, cần có tiền để điều trị bệnh nên yêu cầu bà K phải trả ngay số vàng để bà C điều trị bệnh. Bà Hồ Thị K đã thừa nhận còn thiếu bà C 03 chỉ vàng và đồng ý trả cho bà C. Hai bên không thống nhất thời gian nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Về số tiền, bà C không có chứng cứ chứng minh về việc có cho bà K vay nên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử theo quy định.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Thạnh phát biểu quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong thời gian chuẩn bị xét xử:

+ Quan hệ pháp luật tranh chấp: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp theo quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh.

+ Thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo theo quy định tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015. 

+ Các thủ tục cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát đúng quy định tại chương X BLTTDS 2015.

+ Tư cách đương sự: Việc xác định tư cách đương sự đúng quy định tại Điều 608 BLTTDS 2015.

+ Về thu thập chứng cứ: Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự thực hiện đúng theo quy định tại Điều 97, 98 BLTTDS 2015.

+ Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng quy định tại các điều 94, 95, 96, 97, 109, 208, 209, 210, 211 của BLTTDS 2015.

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

+ Đối với nguyên đơn: Đơn khởi kiện đã thể hiện đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 189 BLTTDS, tham gia đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án, chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS 2015.

+ Đối với bị đơn: tham gia đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án, chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS 2015.

Tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã tuân thủ nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa, cơ bản chấp hành đúng theo quy định tại Điều 234 BLTTDS 2015.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 463, 465, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015 để tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả 03 chỉ vàng 24K, không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả 2.000.000đ

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hợp đồng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Bà Dương Thị C hiện nay 88 tuổi, theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi 39/2009/QH12 ngày 23/11/2009, bà C là người cao tuổi. Bà Dương Thị C không biết chữ, đơn khởi kiện của bà được đánh máy và đã được Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa chứng thực về việc bà C đã tự hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung đơn kiện và lăn tay vào đơn khởi kiện. Đồng thời, tại Biên bản 327/GĐYK ngày 04/7/2017 của Trung tâm giám định y khoa tỉnh Long An kết luận bà Dương Thị C tình trạng tâm thần bình thường, có đủ năng lực hành vi dân sự. Do đó, thủ tục khởi kiện của bà C đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[4] Trong vụ án, theo đơn khởi kiện của nguyên đơn đã khởi kiện bà Hồ Thị K và ông Lê Văn T nên Tòa án xác định bà Hồ Thị K và ông Lê Văn T là bị đơn trong vụ án. Tại phiên hòa giải ngày 17/7/2017, bà Dương Thị C là nguyên đơn trong vụ án và bà Hồ Thị K là bị đơn trong vụ án thống nhất ông Lê Văn T không có liên quan đến tài sản mà bà K thiếu bà C. Bà C yêu cầu bà K trả số tiền và vàng đã vay. Do đó, Tòa án xét thấy không cần đưa ông Lê Văn T tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án. Các đương sự cũng thống nhất về việc này.

[5] Về nội dung tranh chấp giữa các đương sự, bà C yêu cầu bà K trả tài sản đã vay gồm 2.000.000đ và 03 chỉ vàng 24K. Bà C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ về việc hai bên có thỏa thuận vay hai khoản tài sản trên do giữa bà C và bà K không có lập thành văn bản. Tại phiên tòa, các bên đương sự cũng không xuất trình thêm chứng cứ nào khác. Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, bà Khoe chỉ thừa nhận có thiếu bà C 03 chỉ vàng 24K, bà không thừa nhận thiếu bà C 2.000.000đ. Bà K đồng ý trả cho bà C 03 chỉ vàng 24K, giữa bà C và bà Kchỉ không thống nhất với nhau vê thời gian trả.

Đối với số tiền, bà C không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Do đó, không có cơ sở xác định bà K có thiếu bà C số tiền 2.000.000đ. Chính vì vậy, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu của bà Dương Thị C về việc buộc bà Hồ Thị K có trách nhiệm trả cho bà Dương Thị C 03 (ba) chỉ vàng 24K.

[6] Về án phí: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Dương Thị C được chấp nhận một phần nên bị đơn Hồ Thị K phải chịu phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của bà C được chấp nhận. Đối với phần bị bác yêu cầu, nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bà C là Mẹ Việt Nam anh hùng, có chồng và con là Liệt sĩ (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa) nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Áp dụng giá vàng theo thời điểm xét xử là 3.486.000đ (Ba triệu bốn trăm tám mươi sáu nghìn đồng)/chỉ vàng 24K để tính án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 466, 469 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 25, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị C. Buộc bà Hồ Thị K có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị C 03 (ba) chỉ vàng 24K.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị C về việc yêu cầu bà Hồ Thị K trả 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

3. Về án phí:

Bà Hồ Thị K có nghĩa vụ chịu 522.900 đồng (Năm trăm hai mươi hai nghìn chín trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 39/2017/DS-ST ngày 22/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:39/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Thạnh - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về