Bản án 384/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 384/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 372/2019/TLST- HS ngày 22 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 395/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến P, sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1969 và bà Võ Thị H, sinh năm 1976; có 01 em ruột, sinh năm 2004; có vợ tên Lê Thị T, sinh năm 1992 (chưa đăng ký kết hôn) và 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 19/8/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Lê Trọng Đ, sinh năm 1984; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Dương Văn M, sinh năm 1994; địa chỉ: Thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc;

vng mặt.

- Người chứng kiến: Nguyễn Văn Th; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ ngày 19/8/2019, tổ tuần tra Công an phường Dĩ An tuần tra đến trước khách sạn Minh Khánh trên đường DT743, khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, phát hiện Nguyễn Tiến P đang điều khiển xe mô tô biển số 61D1-388.43 đi trên đường có biển hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần Jeans bên trái, phía trước của P có 01 gói nylon hàn kín bên trong có chất tinh thể màu trắng, P khai nhận là ma túy đá, lực lượng tuần tra lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín bên trong có chất tinh thể màu trắng, 01 xe mô tô biển số 61D1-388.43, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 (kèm theo sim số 0886.767.797).

Nguyễn Tiến P khai nhận khoảng 18 giờ ngày 19/8/2019 trong lúc đang làm việc tại công ty thì T (bạn ngoài xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) gọi điện thoại rủ P mua ma túy về cùng sử dụng. Đến khoảng 20 giờ phút, P gọi điện cho T và góp 100.000 đồng, nói P ứng trước tiền mua rồi về T trả lại. P gọi điện thoại cho người đàn ông tên H (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) mua 200.000 đồng ma túy, hẹn giao ma túy ở khu vực cổng Đề Bô xe lửa Dĩ An, thuộc khu phố Thống Nhất 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An. Sau khi mua được ma túy, P cất gói ma túy vào túi quần bên trái phía trước và đến khách sạn Minh Khánh gặp T. Khi đến khách sạn, P gọi điện thoại cho T thì T nói đã về, nên P đi về. Khi ra khỏi cổng khách sạn thì bị lực lượng tuần tra kiểm tra, bắt giữ.

Tại kết luận giám định số 638/MT-PC09 ngày 28/8/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1252 gam, loại Methamphetamine.

Đi với tên H bán ma túy cho Nguyễn Tiến P, do chưa xác định được lai lịch.

Đi với 01 xe mô tô biển số 01 61D1-388.43 do ông Lê Trọng Đ đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông Đ khai nhận vào ngày 19/8/2019, Nguyễn Tiến P có mượn xe để đi công việc, không biết việc P sử dụng xe này làm phương tiện phạm tội nên đã trả lại cho ông Đ.

Đi với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 và sim số 0886.767.797 do ông Dương Văn M là chủ sở hữu, ông M cho Nguyễn Tiến Phước mượn để liên lạc với bạn, không biết việc P sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy nên đã trả lại cho ông M.

Tại cáo trạng số 391/CT–VKS-DA ngày 21 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Tiến P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến P mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Nguyễn Tiến P sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine. Vào khoảng 22 giờ ngày 19/8/2019, tại trước cổng khách sạn Minh Khánh trên đường DT743, khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tổ tuần tra Công an phường Dĩ An tuần tra phát hiện Nguyễn Tiến P điều khiển xe mô tô biển số 61D1-388.43 đi trên đường có biển hiện nghi vấn nên kiểm tra phát hiện trong túi quần Jeans bên trái, phía trước của P có 01 gói nylon hàn kín bên trong có chất tinh thể màu trắng, P khai nhận là ma túy đá nên lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại kết luận giám định số 638/MT-PC09 ngày 28/8/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1252 gam, loại Methamphetamine..

Hành vi của bị cáo Nguyễn Tiến P tàng trữ 01 gói ma túy Methamphetamine, trọng lượng 0,1252 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 391/CT–VKS-DA ngày 21 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nghiện ma túy, chưa có tiền án tiền sự.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,0889 gam Methamphetamine là vật cấm lưu thông cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với tên H bán ma túy cho Nguyễn Tiến P, chưa xác định được lai lịch, tiến hành xác minh điều tra xử lý sau.

[10] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, sim số 0886.767.797 chủ sở hữu là ông Dương Văn M; xe mô tô biển số 01 61D1-388.43 do ông Lê Trọng Đ đứng tên đăng ký chủ sở hữu; ông M và ông Đ không biết P dùng vào việc phạm tội, nên đã trả lại cho các chủ sở hữu.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bỳ có niêm phong chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,0889 gam.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/10/2019, bút lục 74).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Tiến P phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 384/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:384/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về