Bản án 38/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ M, TỈNH D 

BẢN ÁN 38/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXX-HS ngày 24/8/2020 với bị cáo:

Bùi Văn Đ, sinh năm 1984, Nơi cư trú: C3, phường T, thị xã M, tỉnh D; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 03/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Bùi Văn H, sinh năm 1957 và bà Đào Thị L, sinh năm 1957; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/6/2020, chuyển tạm giam từ ngày 01/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh D. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

*Ni làm chứng: Ông Phùng Văn N, sinh năm 1972. Vắng mặt

Địa chỉ: C3, phường T, thị xã M, tỉnh D.

* Người chứng kiến:

1. Ông Chu Văn H, sinh năm 1991

2. Ông Lê Đình K, sinh năm 1965

Đều có địa chỉ: S, L1, thị xã M, tỉnh D.

3. Ông Lê Văn N1 – Cán bộ trại giam Công an tỉnh D.

Đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 23/6/2020, Bùi Văn Đ đi xe ôm của người đàn ông không quen biết từ nhà đến khu vực đường tàu Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh tìm gặp và mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ 12 túi nilon, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng với giá 2.400.000 đồng (Đ khai đó là ma túy dạng đá) để mang về sử dụng. Sau khi có được ma túy, Đ cất số ma túy trên trong người rồi đi xe ôm của người không quen biết đi về nhà. Tại nhà mình, Đ đã sử dụng hết 07 túi ma túy, còn 05 túi ma túy Đ cất giấu trong người. Khoảng 14 giờ ngày 28/6/2020, Đ đi bộ trên đường thuộc khu C3, phường T, thị xã M, tỉnh D thì bị lực lượng công an thị xã M phối hợp với công an phường T trong lúc làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên phải của Đ 01 túi nilon bên trong có 05 túi nilon nhỏ, trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng. Đ khai là ma túy đá, Đ cất giấu nhằm mục đích để sử dụng. Công an thị xã M đã tiến hành niêm phong tang vật, mẫu niêm phong ký hiệu M.

Tại bản Kết luận giám định số 312/KLGĐ-PC09 ngày 30/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an an tỉnh D kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M, ghi thu của Bùi Văn Đ gửi đến giám định tổng khối lượng là 1,195 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Bùi Văn Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 43/CT - VKS ngày 12/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Bùi Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Cáo trạng VKSND thị xã M đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm có cơ hội trở về nhà.

- Đại diện VKSND thị xã M giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; xem xét nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 28/6/2020.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy trong vụ án (mẫu ma túy hoàn lại sau giám định), mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 312/KLGĐ-PC09 ngày 30/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D.

- Án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã M; Viện kiểm sát nhân dân thị xã M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ti phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Đ khai nhận, do bị nghiện ma túy bị cáo đã đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo thừa nhận 05 gói ma túy thu giữ khi bắt người phạm tội quả tang là của bị cáo, bị cáo cất giấu với mục đính để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ; Biên bản niêm phong và Kết luận của cơ quan giám định, cũng như tang vật chứng đã thu giữ.

Đã có đủ căn cứ kết luận: vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 28/6/2020, tại khu vực đường khu C3, phường T, thị xã M, tỉnh D, Bùi Văn Đ có hành vi cất giấu 01 túi nilon bên có chứa 05 túi ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 1,195g thì bị Công an thị xã M phối hợp và Công an phường T trong lúc làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng không những gây tác hại cho sức khoẻ, mà còn làm suy thoái phẩm giá con người, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là đối nghiện ma túy nên bị cáo hoàn toàn thấy được tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, nhận thức được ma túy là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán,... song do coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi bị cáo đã thực hiện và cách ly khỏi bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4]Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người chưa có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên bị cáo được áp dụng tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung:Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ trong vụ án, sau khi giám định thì Cơ quan giám định hoàn lại mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 312/KLGĐ-PC09 ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu cho tiêu hủy.

Theo bị cáo nguồn gốc số ma túy bị cáo có được do bị cáo mua của một người đàn ông ở khu vực đường tàu Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quản Ninh. Bị cáo không biết họ tên, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy cho bị cáo. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã M không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

- Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ :điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Căn cứ: Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 28/6/2020.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu và tiêu hủy số ma túy trong vụ án (mẫu ma túy hoàn lại sau giám định), mẫu ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong số 312/KLGĐ-PC09 ngày 20/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D.

(Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/8/2020 giữa Công an thị xã M và Chi cục thi hành án dân sự thị xã M).

- Án phí: Bị cáo Bùi Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo:Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về